Tôn Trọng Dân (VNTB) Allen Dulles, em Ngoại Trưởng Foster Dulles, nguyên Giám Đốc Trung Ương Tình Báo Mỹ (CIA) thời Tổng Thống Eisenhower, từng khẳng định ý của mình ngay trong tiêu đề bài báo do ông viết: “Muốn thắng cộng sản phải tìm hiểu cộng sản’’ phổ biến vào cuối thập niên 50. Đó là điều đương nhiên, nên, tôi đồng tình với nhận xét rất trung thực của một tác giả tại Kyoto tên Trọng Tín khi vị này bênh vực ông Việt Thường-một người chuyên nghiệp chống Cộng có tên tuổi, sống tại Anh: “phải nói thật rằng, những phân tích lý luận về Cộng Sản của những ‘cây bút chống cộng’ ở Hải Ngoại đều có một điểm chung: họ chẳng hiểu gì về Chủ Nghĩa Cộng Sản cả. Thế mới buồn !!!” [1]
Ba đặc trưng của một Việt Nam sau 1945
Khi nói đến Cộng sản Việt Nam-kẻ đang “thống trị Việt Nam” tất phải nhìn vào Việt Nam với chặng đường đã qua của nó, vì, Cộng sản không lơ lửng trên trời và chỉ có… “răng đen mã tấu” như tuồng hài bài xích rẻ tiền ngoài chợ. Không phải vậy chăng? – Tôi vẫn thích “sự thật được bày ra, sự thật ròng, như thịt xương còn sống, tàu lá còn xanh, như gỗ mộc không sơn phết” [2] nên, dù có làm ai chạnh lòng, để có thể phân tích cho “tới” tiến trình dân chủ hoá tại Việt Nam, tôi buộc phải đưa ra đây 3 đặc trưng của một Việt Nam sau 1945mà người thường dân nào tại Việt Nam cũng nhận thức như vậy, không hề mang dấu vết “nhồi sọ.tẩy não.kém thông thái” gì:
Đặc trưng thứ 1: Trong số các quốc gia đồng dạng bị phân chia tạm thời sau năm 1945, Việt Nam là nước đầu tiên và duy nhất thống nhất 2 phần chia cắt, trong đó, yếu tố độc lập dân tộc là chủ yếu, nếu không muốn nói là đậm đặc mục đích kháng chiến chống Mỹ xâm lược và chế độ tay sai (sử toàn thế giới ghi như vậy, đừng buồn), không mang dấu vết vấn đề dân chủ (vấn đề Quốc-Cộng hằn rõ nhất chính là giữa Trung Quốc-Đài Loan và 2 miền Nam-Bắc Cao Ly, không phải trường hợp Việt Nam). Tại Việt Nam, cuộc chiến 1955–1975 trước nhất và trên hết, là vấn đề dân tộc (an tâm, sẽ có các trích dẫn của chính Quý vị không Cộng sản/chống cộng, vốn đã trải qua nhiều cuộc tranh cãi âm ĩ suốt 40 năm). Mô hình thống nhất đất nước này, cả Bắc Triều – Nam Hàn lẫn Đài Loan – Trung Quốc vẫn không thể giải quyết được, vì: thời cơ phù hợp với tính chất cốt tuỷ của Kỷ nguyên Bạo lực, đã qua qua vĩnh viễn.
“Muốn thắng cộng sản phải tìm hiểu cộng sản”. Ảnh: VOA tiếng việt
Trong thế kỷ XXInày, bất kỳ Bên nào trong các quốc gia đó mang quân tiến công Bên còn lại, đều sẽ bị thế giới chính thức lên án ngay: “xâm lược !”. Đông và Tây Đức do bị phân chia bởi áp lực Liên Xô và phương Tây (cũng là một yếu tố cơ bản, được chấp nhận là “luật chơi” trong Kỷ nguyên Bạo lực) theo Hiệp định Potsdamtháng 8.1945, có dân trí ngang ngữa nhau và lại không có chuyện độc lập dân tộc/giải phóng đất nước nên, chớ hề xem Đức là 1 mẫu hình để có thể được đem ra so sánh, soi xét, nghiệm định công cuộc tái thống nhất đất nước liền 1 dải của Việt Nam. Cuba, với sự bất mãn vì mất quyền lợi của một thiểu số lưu vong sang Florida, cũng còn xa mới đạt điểm ngưỡng khó chịu như vấn đề Việt Nam: ở Cuba, không có vấn đề giải phóng dân tộc mà chỉ có cuộc cách mạng thay đổi chế độ, tức cuộc cách mạng “dân chủ nhân dân” , theo cách gọi của những người Cộng sản.
Đặc trưng thứ 2: Việt Nam thống nhất đất nước với 2 phần địa lý từng trải nghiệm 2 chế độ riêng biệt, trong khi các nước đồng dạng cùng thời lại giữ nguyên chính thể phân chia riêng của họ. Đối với quan sát của thế giới và cả với đa số dân Việt Nam, thực sự, từ năm 1975 trở về sau mới nổi rõ lên dần yếu tố/ngọn cờ thứ Hai là Dân chủ (vấn đề CNXH thực chất là cách giải quyết vấn đề dân sinh dân chủ theo quan điểm Cộng sản). Chính “2 cha-con”: đảng Cộng sản và Mặt trận GPMNVN, trong các cương lĩnh/tuyên bố của mình, đã luôn công khai tuyên bố điều này: “giương cao 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Nên, không thể so sánh và tìm bài học nào từ Trung-Đài, Nam ̶Bắc Triều Tiên, càng không thể từ nước Đức. Do đó, tuy là nước Cộng sản trong nhóm 5 nước cuối cùng, nhưng, Việt Nam liệu sẽ lại tiếp tục là nước đầu tiên (cũng như từng là nước đầu tiên tại Đông Nam Á giành chiến thắng độc lập dân tộc thoát ách thực dân bằng vũ lực vào năm 1954, là nước đầu tiên trong các nước thuộc thế giới thứ 3 giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước từ tay đế quốc vào năm 1975), tái hợp nhất trọn vẹn bằng … 1 cuộc chiến “trời long đất lở” nữa ? – nghe, cũng là một cái lý.
Hàn và Hoa có thể vĩnh viễn ly dị hay không, đó là chuyện của láng giềng xa, chỉ biết là, Việt Nam đang có xu hướng tắm máu lần nữa nếu muốn hợp nhất. Phải có thắng ̶thua: một phần dân Việt vẫn thích thế. Bên “Thua cuộc” (nếu chấp nhận cách gọi có “Bên Thắng cuộc”) muốn “chiến” một lần nữa. Ai thích “chiến” cứ thuê rừng như Hoàng Cơ Minh từng, các em cháu thích cứ đăng ký tòng quân, nếu cha mẹ các em cho phép và sẵn sàng vào…rừng thăm nuôi. Và, không nghi ngờ gì, những vị Cộng sản bảo thủ-bảo hoàng cũng đang rất muốn thử nghiệm hàng loạt vũ khí tối tân thích hợp các kiểu trận địa chiến trong lòng đô thị vừa nhập từ 11 quốc gia: Pháp, Hà Lan, Đức, Israel, Brazil…
Mỹ đã thấy “quá mang tiếng” cho “lòng tốt” của mình hậu Thế chiến thứ II. Vì, Việt Nam không nằm ở bán đảo Triều Tiên, không hề toạ lạc tại bán đảo Ả Rập, bán đảo Sinai, thậm chí bán đảo xinh xắn Crưm/Crimea. Ở bán đảo Đông Dương/Trung ̶Ấn (Indochina/IndoChine) này, Việt Nam là một xứ mà dân không ưa bạo lực, nhưng, nếu cần, thì vẫn đường hoàng sử dụng bạo lực để trả lời với bạo lực. Bằng chứng là cả chiều dài lịch sử đã minh chứng, và giờ tiếp tục sẽ được chứng minh với nỗi niềm oan khuất chỉ có thể “rửa sạch” bằng … máu từ ý muốn của những nhà Dân chủ chống Cộng mơ VNCH. Mỹ, Pháp thừa kinh nghiệm (trừ Trung Hoa, kẻ tự xem mình là trung tâm vũ trụ thì..bất cần nhớ bài học gì, xưa cũ ra sao) để không nhảy vào lần nữa, chỉ là RFI, VOA, RFA, BBC tham gia ủng hộ dân chủ chung mà thôi. Tiền, nếu có, đi cửa hậu. Và, nếu hân hoan với điều đó một cách hồn nhiên, những người dân thích an bình không gọi các thể loại hành vi ấy là lại bán nước thì là gì ?
Henry Kissinger (sinh 1923) vừa xuất bản cuốn “World Order” và được ông Wolfgang Ischinger, cựu đại sứ Đức tại Hoa Kỳ (2001-2006) và tại Anh (2006-2008) viết nhận xét dưới nhan đề “The world according to Kissinger: How to defend global order” đăng trong tạp chí Foreign Affairs số March/April 2015 và được tác giả Trần Bình Nam trích thuật. Vốn là một nhà chiến lược và là một sử gia, Kissinger xác định “trật tự thế giới” là một cách nhìn về sự phân chia quyền lực chính trị của một địa phương, hay của một nền văn hóa, mà họ nghĩ có thể áp dụng cho cả thế giới. Theo quan niệm đó, quyền lực trên thế giới không phải chỉ là sức mạnh kinh tế và quân sự, mà còn là sức mạnh của tư tưởng và ý chí, nhất là ý của kẻ mạnh.
Dựa vào gì đi nữa thì, theo Kissinger, cái mẫu nào mang hai yếu tính “hợp pháp quốc tế” (legitimacy) và “cân bằng quyền lực” (balance of power) mới có khả năng tồn tại. Trong suốt cuốn sách, Kissinger không quên nhấn mạnh một nguyên tắc: đừng vất bỏ một cái khung tổ chức ổn định thế giới nào nếu chưa tìm thấy một cái khung khác có hiệu quả như cái khung cũ [4].
Chọn lựa chủ nghĩa và xã hội công dân
Thế giới ngày nay đã quá biết: từ Thời Đại Của Đức Tin (the Age of Faith) bao trùm Lịch sử nhân loại, dưới những cái tên khác kém mỹ miều hơn: Thời Đại Trung Cổ (the Middle Ages) hay Thời Đại Hắc Ám (the Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (the age of barbarism and intellectual darkness), với ánh sáng của cuộc Cách Mạng Khoa Học (the Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, loài người đã tiến hoá, bước mạnh về Thời Đại Lý Trí (the Age of Reason) ở thế kỷ 18, Thời Đại Khai Sáng (the Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích (the Age of Analysis) vào thế kỷ 20. Đó là chiều tiến hoá nhân loại được nhìn từ góc độ Nhận thức.
Từ góc độ Quyền lực, mãi cho tới ngày nay, chiều tiến hoá của loài người vẫn chưa thoát ra khỏi Kỷ nguyên của Quyền lực được xác lập dựa trên Bạo lực (the Era of Power based on Vilolence), dù, một phần chân của nhân loại đã bước vào Kỷ nguyên của Xã hội Công dân dân chủ đa nguyên(the Era of Pluralist Democratic Civil Society). Trong tác phẩm The Clash of Civilizations (Sự đụng độ giữa các nền văn minh) [5] Giáo sư Samuel P. Huntington nhận định [6]: ”Tây phương thắng thế giới không phải là vì sự ưu việt của những ý tưởng, hoặc giá trị, hoặc tôn giáo Tây phương mà là ưu thế trong sự áp dụng bạo lực một cách có tổ chức.”
Trong tiến trình nhầy nhụa máu mà Lịch sử đang nhấc dần chân của mình ra vũng lầy đó để bước tới, loài người vẫn tạm dùng khái niệm tư bản chủ nghĩa để gọi giai đoạn này, nhưng, giáo sư Nguyễn Mạnh Tường cũng từng nhận định: “Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là những từ ngữ tự nó chẳng có ý nghĩa mà là những từ ngữ tuỳ thuộc vào mùi vị và sự chọn lựa của những người dùng nó” [7]. Xã hội văn minh đang vẫy gọi đó chẳng hề là ‘tư bản’ hoặc ‘Cộng sản’ theo cách mà Marx cùng một loạt dằng dặc Quý vị tiên sinh.đương thời lẫn hậu sinh của ông đã định danh, cố kết. Nó thừa hưởng tất cả mặt mạnh của tổ tiên, của loài người tiến hoá, và đang cần một tên mới, nhưng nó không chờ, không đợi, để “được”. Nó bất chấp, nó thản nhiên đi tới. Nó mặc kệ các cuộc đấu tranh, vì, rồi nó cũng sẽ tới. Con người (một số) đang và (hầu hết, cho đến tất cả) rồi sẽ nhận ra kỷ nguyên này. Thế giới chưa.có.tên đó đang tổ chức lại dưới dạng: Xã hội Công dân.
Tại Việt Nam, nếu đã thừa nhận Cộng sản là thể loại “phong kiến nâng cấp”, thì sau nó, đã đến lúc không thể chấp nhận cái ngược lại nó nhưng lại tiếp tục tinh thần bạo lực-cường quyền của nó, mà là cần đấu tranh để thừa nhận sự xuất hiện cái khác hẳn nó. Đó là cái mà hiện một phần thế giới, từ 1989, đang sống và hướng tới: xã hội Công dân, có tố chất căn cốt: Dân chủ Đa nguyên, đồng thuận hợp tác đa chiều để xây dựng và chia sẻ một tương lai chung.
[5]Samuel Phillips Huntington (1927-2008), chuyên gia nghiên cứu chính trị xuất chúng ở Hoa Kỳ, nổi tiếng với tác phẩm ‘The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order’, xuất bản bằng 39 thứ tiếng.
[6] Nguyên văn: “The West won the world not by the superiority of its ideas or values or religion but rather by its superiority in applying organized violence”.
[7] Trích hồi ký của giáo sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) “Kẻ bị mất phép thông công – Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức” (Un Excommunité – HàNội 1954-1991: Procès d’un intellectuel) do Nguyễn Quốc Vĩ dịch từ nguyên văn tiếng Pháp. Tác phẩm này được xuất bản lần đầu bởi NXB Quê Mẹ (Paris) vào năm 1992.
* Bài “Có nên ‘vẽ rắn thêm chân’?” được VNTB trích đăng từ chỉnh thể loạt bài gồm 8 phần: “Net-People” & HẤP LỰC của tác giả Tôn Trọng Dân gửi đến báo”