Khánh An dịch
(VNTB) – Thương mại và đầu tư nước ngoài đã giúp Việt Nam thoát khỏi cảnh nghèo cùng cực. Liệu chúng có thể làm cho Việt Nam trở nên giàu có?
Ngày 30 tháng 8 năm 2021
Từng gây ấn tượng cho thế giới khi chế ngự được virus vào năm ngoái, Việt Nam hiện đang ở trong đợt bùng phát dịch covid-19 tồi tệ nhất cho đến nay. Những khu vực trong nước đang trong tình trạng phong tỏa nghiêm ngặt và một loạt các nhà máy, từ nhà máy sản xuất giày cho Nike đến nhà máy sản xuất điện thoại thông minh cho Samsung, đều hoạt động chậm lại hoặc đóng cửa, làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, việc hội nhập với nền sản xuất toàn cầu đã giúp giữ cho nền kinh tế Việt Nam luôn hoạt động trong thời kỳ đại dịch. Năm 2020, GDP tăng 2,9% ngay cả khi hầu hết các quốc gia đều bị suy thoái nặng nề. Bất chấp đợt bùng phát mới nhất, năm nay có thể chứng kiến tốc độ tăng trưởng nhanh hơn: dự báo mới nhất của Ngân hàng Thế giới, được công bố vào ngày 24 tháng 8, kỳ vọng mức tăng 4,8% vào năm 2021.
Màn trình diễn này cho thấy lý do thực sự Việt Nam tạo được ấn tượng. Sự cởi mở đối với thương mại và đầu tư đã khiến Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng. Và điều đó đã tạo ra một quá trình tăng trưởng đáng nể và kéo dài. Việt Nam là một trong năm quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới trong 30 năm qua, đánh bại các nước láng giềng khác. Kỷ lục đạt được mang tính đặc trưng không phải do tình trạng phập phù của nhiều thị trường mới khác, mà bởi sự tăng trưởng ổn định. Chính phủ thậm chí còn tham vọng hơn, mong muốn Việt Nam trở thành một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, một nhiệm vụ đòi hỏi phải tăng trưởng ở mức 7% một năm. Bí quyết thành công của Việt Nam là gì – và có thể duy trì được không?
Việt Nam thường được so sánh với Trung Quốc vào những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000, không phải không có lý do. Cả hai đều là quốc gia cộng sản, do hệ thống chính trị độc đảng độc đảng lãnh đạo, đã chuyển sang tư bản chủ nghĩa và tập trung vào tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Nhưng cũng có sự khác biệt lớn. Đầu tiên, ngay cả việc mô tả nền kinh tế Việt Nam là tập trung vào xuất khẩu cũng không tương xứng với số bán ra nước ngoài. Thương mại hàng hóa Việt Nam vượt quá 200% GDP. Không có mấy nền kinh tế trên thế giới, ngoại trừ các quốc gia giàu tài nguyên nhất hoặc các quốc gia nhỏ có thương mại hàng hải đóng góp phần lớn cho kinh tế, hay những quốc gia luôn tập trung vào thương mại.
Không chỉ mức độ xuất khẩu mà bản chất của các nhà xuất khẩu cũng đã khiến Việt Nam khác biệt với Trung Quốc. Thật vậy, với sự kết nối sâu rộng với chuỗi cung ứng toàn cầu và mức đầu tư nước ngoài cao, Việt Nam có vẻ giống Singapore hơn. Kể từ năm 1990, Việt Nam đã nhận được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trung bình trị giá 6% GDP mỗi năm, gấp hơn hai lần mức toàn cầu – nhiều hơn nhiều so với Trung Quốc hay Hàn Quốc đã từng ghi nhận trong một thời gian dài.
Khi các quốc gia Đông Á khác phát triển và có mức lương tăng cao, Việt Nam thu hút các nhà sản xuất toàn cầu với chi phí lao động thấp và tỷ giá hối đoái ổn định. Điều đó thúc đẩy xuất khẩu bùng nổ. Trong thập kỷ qua, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đã tăng 137%, trong khi xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng 422%.
Nhưng khoảng cách ngày càng gia tăng giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước hiện đang đặt ra mối đe dọa cho sự mở rộng của Việt Nam. Việt Nam đã phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư và xuất khẩu của các công ty nước ngoài, trong khi các công ty trong nước hoạt động kém hiệu quả.
Các công ty nước ngoài có thể tiếp tục phát triển, tạo ra nhiều việc làm và sản lượng hơn. Mức độ họ có thể thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam lại gặp phải những giới hạn. Việt Nam sẽ cần một khu vực dịch vụ có năng suất và hiệu quả cao hơn. Khi mức sống tăng lên, nước này có thể trở nên dần kém hấp dẫn các nhà sản xuất nước ngoài hơn và người lao động sẽ cần những cơ hội khác.
Một phần của lực cản đối với các doanh nghiệp trong nước là do các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tầm quan trọng của DNNN trong hoạt động kinh tế và việc làm đã bị thu hẹp (xem biểu đồ 3). Nhưng DNNN vẫn có tác động lớn đến nền kinh tế vì vị thế được ưu đãi trong hệ thống ngân hàng và được vay với lãi suất thấp. Ngân hàng bù đắp khoản cho vay không hiệu quả đó bằng cách tính lãi suất cao hơn cho các công ty trong nước khác. Trong khi các công ty nước ngoài có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ở nước ngoài, thì lãi suất cho vay ngân hàng trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam bình quân đã lên tới 10,25% trong năm ngoái. Nghiên cứu gần đây của các học giả tại Trường Kinh tế London cũng cho thấy rằng mức tăng năng suất trong 5 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 sẽ cao thêm 40% nếu không có các doanh nghiệp nhà nước.
Để thúc đẩy khu vực tư nhân, chính phủ muốn nuôi dưỡng các tập đoàn tương đương với các chaebol (các tập đoàn lớn) của Hàn Quốc hoặc keiretsu (các tập đoàn lớn) của Nhật Bản, các nhóm công ty lớn hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính phủ đang “cố gắng tạo ra những nhà vô địch quốc gia”, ông Lê Hồng Hiệp, thành viên cấp cao tại Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore, và là một cựu công chức Việt Nam cho biết.
Tập đoàn Vingroup là ứng cử viên rõ ràng nhất. Với VinPearl, VinSchool và VinMec, Vingroup tham gia các hoạt động ở các lĩnh vực du lịch, giáo dục và y tế. VinHomes, chi nhánh bất động sản, là công ty tư nhân niêm yết lớn nhất Việt Nam tính theo vốn hóa thị trường.
Nỗ lực thâm nhập vào lĩnh vực sản xuất ô tô thành phẩm thông qua hãng sản xuất ô tô VinFast của Vingroup có thể đóng vai trò quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia thường được biết đến với ngành sản xuất trung gian. Vào tháng 7, xe Fadil của Vinfast, dựa trên thiết kế của thương hiệu Opel, đã trở thành mẫu xe bán chạy nhất của Việt Nam vượt qua Toyota. VinFast cũng có tham vọng lớn ở nước ngoài. Vào tháng 7, công ty này thông báo rằng họ đã mở văn phòng ở Mỹ và Châu Âu và dự định bán xe hơi điện ở đó vào tháng 3 năm 2022.
Tuy nhiên, việc nuôi dưỡng các nhà vô địch quốc gia trong khi vẫn mở cửa cho đầu tư nước ngoài không phải là điều dễ dàng. VinFast được hưởng lợi nhờ được giảm thuế doanh nghiệp trong 15 năm hoạt động đầu tiên. Vào tháng 8, truyền thông nhà nước cũng đưa tin rằng chính phủ đang xem xét khôi phục việc giảm 50% lệ phí trước bạ cho ô tô sản xuất trong nước đã hết hạn sử dụng vào năm ngoái.
Tuy nhiên, việc quốc trở thành thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cũng như một loạt các thỏa thuận thương mại và đầu tư khác, có nghĩa là Việt Nam không thể dành ưu đãi cho các nhà sản xuất trong nước. Việt Nam cũng phải mở rộng hỗ trợ cho các công ty nước ngoài sản xuất ô tô tại Việt Nam. (Ngược lại, chính sách thương mại của Trung Quốc, vốn ưa thích các thỏa thuận thương mại bao trùm nhiều lĩnh vực nhưng không có nhiều quy định chi tiết, không hạn chế chính sách trong nước như vậy.)
Việt Nam cũng có thể hy vọng dựa vào một nguồn tăng trưởng khác. Kinh tế bùng nổ đã khuyến khích cộng đồng người gốc Việt ở nước ngoài đầu tư, hoặc thậm chí trở về Việt Nam sinh sống. Andy Ho thuộc VinaCapital, một công ty đầu tư với tài sản 3,7 tỷ đô la cho biết: “Không có nhiều nền kinh tế đang trải qua điều tương tự như Việt Nam. Gia đình ông đến Mỹ vào năm 1977. Ông Ho được đào tạo và làm việc trong lĩnh vực tư vấn và tài chính. Ông và gia đình trở về Việt Nam vào năm 2004. “Nếu tôi là người Hàn Quốc, tôi có thể đã quay trở lại những năm 1980, nếu tôi là người Trung Quốc, tôi có thể đã quay trở lại năm 2000”. Sự thành công đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới với 17 tỷ đô la vào năm ngoái, tương đương 6% GDP.
Nếu để việc thất bại trước dịch covid-19 sang một bên, có vẻ như khó mà không thể lạc quan về một quốc gia dường như đang trong giai đoạn đầu của việc lập lại một phép lạ kinh tế Đông Á. Nhưng không có quốc gia nào giàu lên chỉ nhờ kiều hối. Khi Việt Nam phát triển, việc duy trì tăng trưởng nhanh chóng từ xuất khẩu của các công ty nước ngoài sẽ ngày càng trở nên khó khăn, và căng thẳng giữa mở cửa với đầu tư nước ngoài và thúc đẩy các công ty hàng đầu trong nước sẽ trở nên gay gắt hơn. Vì vậy cải cách khu vực tư nhân và hệ thống tài chính trong nước là điều tối quan trọng. Nếu không, mục tiêu làm giàu nhanh chóng cao cả của chính phủ có thể sẽ nằm ngoài tầm với.
Nguồn: The Economist