VNTB – “Giai cấp mới”, đã đến giai đoạn cuối (kỳ cuối)

Phùng Hoài Ngọc (VNTB) Sự khác nhau giữa các nước càng lộ rõ khi những người cộng sản ở một nước nào đó, vì hoàn cảnh, đã chiếm được quyền lực bằng những con đường “phi truyền thống” và với tốc độ khác các nước kia. Và họ phải là những người tương đối độc lập.

Ngày nay “quốc tế cộng sản” đã tan rã
Hãy cùng điểm lại quá trình hoạt động của QTCS trước khi bàn đến giai đoạn tột cùng của nó.
Quốc tế cộng sản 1 tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế *[1], tiếng Anh là The International Workingmen’s Association (IWA, 1864 -1876). Đây là tổ chức đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ở Luân Đôn vào ngày 28. 9.1864, mục đích là đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Trong thời gian tồn tại, QTCS1 tiến hành 5 lần đại hội, thông qua các nghị quyết chính: tán thành bãi công, thành lập công đoàn, đấu tranh đòi ngày làm 8 giờ, đòi cải thiện đời sống công nhân”.
Quốc tế CS 2 là một liên minh quốc tế với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới, chủ yếu là tại châu Âu, được thành lập ngày 14 tháng 07 năm 1889 ở Paris, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951. 
Quốc tế CS3 là tổ chức của những người cộng sản, thành lập tháng 3 năm 1919 ở Moskva, giải tán năm 1943, được tái sinh năm 1947 và cuối cùng giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động là đấu tranh lật đổ chế độ TBCN, xây dựng chế độ XHCN, thiết lập Chuyên Chính Vô Sản. Ông trùm Vladimir Ilyich Lenin vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Từ mục đích cụ thể rõ ràng như thế, đã có bao kẻ “ăn theo” lợi dụng để đạt các mục đích khác, ngày càng xa rời mục đích ban đầu. Kết thúc số phận “quốc tế cs” là Quốc tế thứ 4.
Quốc tế CS 4 (Đệ tứ Quốc tế) là liên minh quốc tế của những người theo Chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng “cách mạng thường trực” do Trotsky đưa ra sau khi Lenin (trùm quốc tế cộng sản 3) qua đời (1924) để chống lại đường lối “cách mạng vô sản trong một quốc gia” của Stalin. Kể từ năm 1953, Quốc tế thứ 4 bị phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.
Người Việt Nam đầu tiên nhập cuộc chơi lớn và tốn kém với QTCS 3 là Nguyễn Ái Quốc, đồng thời tham gia Đảng CS Pháp năm 12/1920 tại đại hội ở Tours.
Công trình GIAI CẤP MỚI của Milovan Djilas đã chỉ ra “tính dân tộc” của các Đảng cộng sản trong “Quốc tế cộng sản” như thế nào? Nhà nghiên cứu đã chỉ ra tính phi lý của QTCS và báo hiệu về sự tan vỡ của nó.
“Chủ nghĩa Cộng sản dân tộc”
1. Sau khi nắm được “tay lái”, những người cộng sản ở các nước khác nhau phải đối diện với những trình độ kĩ thuật, văn hoá khác nhau, với những quan hệ xã hội không giống nhau, với những đặc thù dân tộc khác nhau, chính quyền mới không thể không tính đến điều đó. 
Bây giờ, đây không chỉ là một “cái chảo quyền lợi chung” của bộ máy quan liêu cộng sản quốc tế mà còn là môi trường dung dưỡng cho những cuộc cắn xé và bất hoà của cái “tập thể” ấy trên cơ sở quốc gia-dân tộc. “Chủ nghĩa quốc tế vô sản” chỉ còn là những khẩu hiệu; giờ đây nó chỉ còn là một hố sâu che giấu những lợi ích trong quan hệ đối nội và đối ngoại trần trụi, che đậy những kế hoạch, dự định của các nhóm cộng sản chóp bu đương quyền mà thôi.
Nhận ra sự khác nhau giữa các nước cộng sản, trùm đế quốc Liên Xô Stalin đã cố gắng loại bỏ một cách vô vọng.
Không có chế độ cộng sản nào, dù có vẻ giống các chế độ khác đến đâu, có thể tồn tại được nếu nó không khoác lên mình những biểu hiện của chủ nghĩa cộng sản dân tộc. Hơn thế nữa, để có thể trụ được, chế độ cộng sản càng ngày càng phải có hình thức dân tộc chủ nghĩa hơn, càng phải thích nghi với thực tiễn của dân tộc hơn. 
Sự khác nhau giữa các nước càng lộ rõ khi những người cộng sản ở một nước nào đó, vì hoàn cảnh, đã chiếm được quyền lực bằng những con đường “phi truyền thống” và với tốc độ khác các nước kia. Và họ phải là những người tương đối độc lập.
Cụ thể chỉ có ba nước: Liên Xô, Trung Quốc và Nam Tư (nơi nhiều nơi ít khác nhau), nơi những người cộng sản tự tiến hành cách mạng, giành chính quyền và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu của mình và với tốc độ do mình định đoạt. Các nước này đã giữ được độc lập sau khi đã trở thành cộng sản, ngay cả khi Nam Tư trước đây và Trung Quốc hiện nay bị áp lực lớn từ phía Liên Xô. Tại phiên họp kín đại hội XX, Khrushchev đã vén bức màn bí mật về việc ngăn chặn vụ tranh chấp giữa Stalin với ban lãnh đạo Trung Quốc. Như vậy là, vụ đối đầu với Nam Tư không phải là vụ duy nhất, nó chỉ là vụ đầu tiên và kịch tính nhất, trồi lên trên bề mặt trong thời gian gần đây mà thôi.
Tiếc thay, Việt Nam thiếu tự chủ, chẳng được như Nam Tư và ít nhất như Trung cộng. Việt Nam luôn luôn bị động. Ngay khi vừa giành được chính quyền 1945 đã rơi ngày vào vòng tay “đồng chí nâng đỡ” của Trung cộng. Và đó là nguyên nhân trực tiếp bi kịch ngày nay.
Đảng Nam Tư chính là đảng CS đầu tiên tỉnh táo và kiên quyết thoát dần ra khỏi “vòng tay bạo lực” của Liên Xô. Milovan Djilas nhận định rất sớm:
Như ta đã biết, tất cả các nước cộng sản khác đều là do lãnh đạo Liên Xô áp đặt bằng quân đội của mình. Vì vậy, sự khác biệt về đường lối và tốc độ phát triển không đạt đến mức như Nam Tư và Trung Quốc. Nhưng cùng với sự củng cố của bộ máy quan liêu đương quyền, cùng với việc bộ máy này càng ngày càng độc lập hơn, nó sẽ càng ngày càng nhận thức được rằng việc tuân theo, việc sao chép Liên Xô một cách mù quáng chỉ làm cho nó thêm mất giá, nó sẽ bắt chước Nam Tư, nghĩa là phát triển độc lập hơn. Cộng sản Đông Âu là tay sai của Liên Xô không phải là vì họ thích như thế mà vì họ quá yếu. Cùng với việc ổn định vị thế của mình và khi điều kiện cho phép, nhất định họ sẽ bắt đầu khao khát độc lập, sẽ bắt đầu bảo vệ “nhân dân nước mình” khỏi bá quyền Xô Viết.
Các nước, nơi mà cách mạng cộng sản chiến thắng chủ yếu nhờ vào nội lực, nhất định sẽ chọn đường lối phát triển riêng và sẽ mâu thuẫn với các nước khác, nhất là với Liên Xô, nước cộng sản mạnh nhất và cũng có thái độ đế quốc nhất. Theo quan điểm triết học, như vậy có nghĩa là tầng lớp quan liêu của dân tộc ấy đã nhận thức được bản chất của mình, đã giành được chính quyền và nay đòi hỏi quyền bình đẳng.
Các chính quyền cộng sản phụ thuộc ở Đông Âu có thể và phải giành lấy độc lập từ tay Liên Xô. Ước muốn độc lập sẽ đi xa đến đâu, cũng như mâu thuẫn sẽ biểu hiện dưới hình thức nào, là vấn đề không ai có thể đoán trước được, điều đó phụ thuộc vào hàng loạt tác nhân quốc gia và quốc tế. Nhưng bộ máy quan liêu cộng sản từng nước sẽ càng ngày càng độc lập hơn và nắm được nhiều quyền lực hơn, đấy là một điều chắc chắn. Phong trào phản đối Tito ở Đông Âu khi Stalin còn sống, cũng như việc công khai nói đến “xây dựng chủ nghĩa xã hội” theo “con đường riêng”, nhất là ở Ba Lan và Hungari, hiện nay, đã chứng minh điều đó. Chính phủ trung ương Liên Xô còn phải giải quyết vấn đề “dân tộc chủ nghĩa” ngay với những nhà lãnh đạo do họ nặn ra (Ukraine, Caucasia), nói gì đến các nước Đông Âu.
2. Trước khi Thế chiến II kết thúc, khái niệm chủ nghĩa cộng sản dân tộc là khái niệm vô giá trị, (…) Khái niệm này chỉ xuất hiện khi xảy ra đụng độ giữa Nam Tư và Liên Xô.
Các quốc gia cộng sản khác cũng có cùng xu hướng phát triển như vậy. Một lúc nào đó, tuỳ vào khả năng và hoàn cảnh, các chế độ đó cũng sẽ muốn trở thành (và sẽ trở thành) các nước đế quốc và bá quyền theo kiểu của mình.
Như vậy là, nếu không kể giai đoạn thứ nhất, giai đoạn hai, bắt đầu với chiến thắng cùa Stalin, của công nghiệp hoá và sự thống trị của giai cấp mới trong những năm 1930, chính sách đối ngoại của Liên Xô bắt đầu mang tính đế quốc chủ nghĩa. Bước ngoặt này xảy ra ngay trước chiến tranh, khi chính quyền Stalin đáng ra phải (và đã có điều kiện) chuyển từ những tuyên bố yêu chuộng hoà bình và chống đế quốc thành việc làm thực tế thì việc thay đổi lãnh đạo Bộ ngoại giao, từ một người cởi mở, khả ái và có nguyên tắc là Litvinov bằng một người người kín đáo và vô nguyên tắc là Molotov lại cho thấy điều ngược lại.
Khi các đảng cộng sản Đông Âu chưa đủ mạnh và chính Liên Xô cũng chưa củng cố được về mặt kinh tế, chính phủ Xô Viết (ngay cả nếu không có sự độc đoán của Stalin) buộc phải dùng các biện pháp hành chính để duy trì sự thống trị trong các nước Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc Liên Xô đã buộc phải sử dụng các biện pháp chính trị, mà trước hết là cảnh sát và lực lượng vũ trang, để bù đắp cho những yếu kém, trước hết là về kinh tế của mình.
Đây chỉ là biểu hiện ở một trình độ cao hơn của chủ nghĩa đế quốc phong kiến – quân phiệt thời Sa Hoàng, nó cũng phù hợp với cơ cấu nội tại của Liên Xô, nơi bộ máy hành chính và cảnh sát đặt dưới sự chỉ huy của một cá nhân duy nhất đang giữ thế thượng phong.
Chủ nghĩa Stalin chính là sự kết hợp của nền chuyên chính cộng sản độc tài cá nhân và chủ nghĩa đế quốc quân phiệt.
Lập ra các tổ chức xã hội hữu nghị và các tổ chức khác ở mỗi nước, sử dụng áp lực chính trị để nhập khẩu hàng hoá từ Đông Âu theo giá thấp hơn giá cả trên thị trường quốc tế, thành lập “thị trường xã hội chủ nghĩa”, kiểm soát tất cả chính sách của các chính phủ và các đảng phụ thuộc, biến tình cảm tốt đẹp của những người cộng sản đối với “quê hương của chủ nghĩa xã hội” thành sự sùng bái nhà nước Xô Viết, sùng bái Stalin là những chính sách không thể tách rời của chủ nghĩa đế quốc Xô Viết.
Chuyện gì đã xảy ra? 
Ở Liên Xô, trong nội bộ giai cấp cầm quyền đã diễn ra sự thay đổi “thầm lặng”, Stalin đã ngăn chặn sự xuất hiện công khai của những thay đổi này. Những thay đổi tương tự cũng đã diễn ra trong các nước Đông Âu: bộ máy quan liêu dân tộc ở đấy, trong khi củng cố quyền lực và sở hữu của mình, đã vấp phải những vấn đề do áp lực bá quyền của Liên Xô gây ra. Nếu trước đây, để giành quyền lực, họ phải từ bỏ đặc thù dân tộc của mình thì ngày nay quan điểm đó đã trở thành chướng ngại vật trên con đường tiến lên của họ. Ngoài ra, chính phủ Liên Xô cũng không còn đủ khả năng theo đuổi chính sách đe doạ sử dụng vũ lực và cách li vừa tốn kém vừa nguy hiểm như thời còn Stalin, đồng thời, họ cũng không thể giữ mãi một loạt nước châu Âu trong “sân sau” của mình trong thời buổi mà những tình cảm chống đế quốc dâng cao như hiện nay nữa.
Sau một giai đoạn lúng túng và câu dầm, các lãnh tụ Liên Xô buộc phải công nhận rằng những lời kết án chống lại các nhà lãnh đạo Nam Tư về việc họ là gián điệp của phát xít Đức và của Mĩ vì họ đã bảo vệ quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình là không có cơ sở. Tito đã trở thành nhân vật nổi tiếng của phong trào cộng sản đương đại. Nguyên tắc dân tộc đã được công nhận về mặt hình thức. Nhưng đồng thời, Nam Tư cũng đánh mất vai trò của lực lượng sáng tạo trong phong trào cộng sản. Cách mạng Nam Tư đã được “thuần hoá”, bắt đầu một thời kì phát triển hoà bình và đơn điệu dưới quyền cai trị của độc tài cộng sản. Tình thân giữa các kẻ thù cũ không trở thành vĩnh cửu, các cuộc tranh cãi cũng chưa kết thúc. Chỉ là một giai đoạn mới.
Đồng thời Liên Xô cũng chuyển sang giai đoạn hai, giai đoạn sử dụng các biện pháp kinh tế và chính trị cho các tham vọng đế quốc của mình. Ít nhất, ta có cảm tưởng như thế khi phân tích các sự kiện hiện có trong ngày hôm nay. 
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc đã trở thành hiện tượng phổ biến. Nơi nhiều, nơi ít, nhưng nó đã thâm nhập vào phong trào cộng sản tất cả các nước. Liên Xô là trường hợp ngoại lệ, đấy chính là đối tượng mà các phong trào dân tộc chĩa mũi dùi vào. Nhưng trong thời Stalin, cộng sản Liên Xô cũng đã từng là cộng sản dân tộc. Khi đó phong trào cộng sản Nga đã chối bỏ chủ nghĩa quốc tế, nó chỉ lợi dụng tinh thần quốc tế như là công cụ của chính sách đối ngoại của mình mà thôi.. 
Chế độ cộng sản Xô Viết đã và đang đối diện với đòi hỏi phải công nhận một thực tế mới trong phong trào cộng sản quốc tế. 
Việc chính phủ Liên Xô phải “nghiến răng” công nhận các hình thức dân tộc của phong trào cộng sản là một sự kiện cực kì quan trọng nhưng cũng cực kì nguy hiểm cho chủ nghĩa đế quốc Xô Viết. 
Chính Moskva cũng đã không còn như xưa nữa. Độc quyền về tư tưởng và đạo đức đã không còn. Sau khi đoạn tuyệt với Stalin, Moskva không đã còn là trung tâm tư tưởng nữa. Thời đại của những hoàng đế cộng sản vĩ đại và những tư tưởng vĩ đại đã chấm dứt, bây giờ là thời của những viên chức quan liêu cộng sản tầm thường.
Liên Xô không còn là trung tâm tư tưởng của phong trào cộng sản quốc tế nữa. Sự thống nhất của phong trào cộng sản quốc tế đã bị một vết thương không gì cứu chữa được, hiện chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ nó sẽ hồi sinh trong một tương lai không xa.
Nhưng dù đã thay thế cá nhân Stalin, “Ban lãnh đạo tập thể” không thể thay đổi được bản chất của hệ thống ở Liên Xô; cũng như các phong trào cộng sản dân tộc, dù đã vững mạnh lên sau khi thoát khỏi ảnh hưởng của Moskva, cũng không thể thay đổi được bản chất nội tại của mình, đấy là nhà nước toàn trị, độc quyền tư tưởng và bộ máy quan liêu. Thực ra nó cũng đã hạn chế được áp lực và làm chậm lại quá trình củng cố quyền sở hữu, đặc biệt là ở nông thôn. Nhưng chủ nghĩa cộng sản dân tộc không có ý định và không thể trở thành một cái gì khác ngoài chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy mà nó luôn luôn và một cách vô thức quay về với Liên Xô như là “cội nguồn của mọi cội nguồn”. Nó không thể tách số phận của mình khỏi số phận của các nước và các phong trào cộng sản khác. 
Biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc trong phong trào cộng sản đã tạo ra nhiều nguy cơ cho chủ nghĩa đế quốc Xô viết giai đoạn Stalin, nhưng không phải là nguy cơ của chính phong trào cộng sản. Ngược lại, nó có thể tăng cường sức mạnh ở những nơi đã giành được quyền lực và như thế, trở nên hấp dẫn hơn với những con mắt nhìn vào từ bên ngoài.
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc xuất hiện trong giai đoạn phi giáo điều, nghĩa là giai đoạn bài Stalin của phong trào cộng sản và cũng là đặc điểm quan trọng của giai đoạn này.
3. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc không có khả năng thay đổi tình hình chính trị thế giới cả trên bình diện quan hệ giữa các quốc gia lẫn trong nội bộ phong trào công nhân. Dĩ nhiên là nó có thể có ảnh hưởng to lớn với cả hai tiến trình này.
Thí dụ, chủ nghĩa cộng sản dân tộc Nam Tư đã có tác động không nhỏ trong việc xói mòn chủ nghĩa đế quốc Xô Viết và hạ bệ chủ nghĩa Stalin trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế. Nguyên nhân của những sự thay đổi đang diễn ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu nằm ngay trong lòng những nước đó. Nhưng những thay đổi đầu tiên theo kiểu đó đã xảy ra ở Nam Tư. Và cũng kết thúc ở đấy trước. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc Nam Tư, bằng cuộc đối đầu với chủ nghĩa Stalin, đã khơi mào cho một giai đoạn mới, giai đoạn hậu Stalin trong phong trào cộng sản quốc tế. Ảnh hưởng của nó đối với phong trào cộng sản quốc tế là rõ ràng, đối với quan hệ quốc tế và phong trào công nhân phi cộng sản, dĩ nhiên là ảnh hưởng của nó có yếu hơn.
Các nhà lãnh đạo Nam Tư đã lẫn lộn giữa ước mơ và hiện thực, giữa quyền lợi nhất thời với những dị biệt sâu xa về xã hội và lịch sử. 
Các liên minh và khối quân sự là những hiện tượng nhất thời, trong khi chủ nghĩa xã hội phương Tây và chủ nghĩa cộng sản phương Đông là những xu hướng có tính ổn định và có nguồn gốc sâu xa hơn nhiều.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản và phong trào dân chủ xã hội không chỉ vì sự khác nhau về nguyên tắc (ít lí do nhất) mà là sự khác nhau về xu hướng phát triển của sức mạnh kinh tế và tinh thần. Điều mà Deutscher đã gọi rất đúng là khởi đầu một sự chia rẽ vĩ đại trong lịch sử – vụ đụng độ giữa Martov và Lenin tại Đại hội II Đảng dân chủ xã hội Nga ở London năm 1903 về vấn để đảng tịch, đúng hơn là về mức độ tập trung hoá và kỉ luật – đã đưa đến một loạt hậu quả mà những người khởi xướng cuộc tranh luận ấy không thể nào mường tượng nổi. Đấy không chỉ là sự khởi đầu của hai phong trào mà là sự khởi đầu của hai hệ thống xã hội khác nhau. 
Tác giả Milovan nhận định về tình hình Nam Tư. Đảng CS Nam Tư muốn liên kết với các đảng phái xã hội dân chủ khi vẫn muốn giữ quyền cai trị là điều phi lý, không thể thành công. Chính vì điều này mà ông bị Đảng của ông ruồng bỏ. (Cũng như ngày nay, Trung cộng tạo ra vài đảng phái xã hội dân chủ giả bộ liên kết nhưng vẫn giữ quyền cầm lái, cầm càng thì không thể tốt đẹp được).
Không thể nào loại bỏ được hố sâu ngăn cách giữa những người cộng sản và những người dân chủ xã hội nếu không thay đổi bản chất của hai phong trào ấy, nếu không thay đổi ngay cái hoàn cảnh đã tạo ra mâu thuẫn giữa chúng với nhau. Trong nửa thế kỉ qua, dù có một số lần xích lại gần nhau trong những giai đoạn ngắn, sự khác biệt chỉ ngày một sâu sắc thêm, bản chất khác nhau của mỗi bên càng lộ rõ thêm. Hôm nay, dân chủ xã hội và chủ nghĩa cộng sản không chỉ là hai phong trào mà còn là hai thế giới.
Bàn về các đảng cộng sản thuần túy không độc tài toàn trị
Giống như Nam Tư, nếu các đảng cộng sản ở các nước phi cộng sản theo đuổi đường lối dân tộc chủ nghĩa thì ảnh hưởng của nó trên trường quốc tế sẽ còn lớn hơn cả ảnh hưởng của những đảng cộng sản dân tộc chủ nghĩa đã giành được chính quyền. Trước hết, đấy là đảng cộng sản Pháp và Ý, là những đảng tập hợp được đa số tuyệt đối giai cấp công nhân và nếu không kể đến một vài đảng ở châu Á, thì đây là những đảng có ảnh hưởng mạnh nhất trong thế giới phi cộng sản. 
Các biểu hiện của chủ nghĩa cộng sản dân tộc trong các đảng đó hiện chưa đạt được qui mô và sự hưởng ứng có ý nghĩa. Nhưng các biểu hiện như vậy nhất định sẽ xảy ra và cuối cùng sẽ dẫn tới những thay đổi cơ bản trong nội bộ những đảng đó. 
Càng không thể coi đấy là do sự thay đổi đường lối một cách đột ngột của Moskva và các đảng cộng sản chấp chính khác, tức là những thay đổi đã đặt những người cộng sản vừa kể và cả những người chưa được kể, hiện chưa nắm chính quyền, trước sự “khủng hoảng về mặt lương tâm”, phải lên án những điều mà vừa mới hôm qua còn được đưa lên tận chín tầng mây, buộc phải thay đổi đường lối một cách đột ngột.
Chỉ một nhóm những người cộng sản giáo điều là có thể bình thản đứng nhìn sự xa lánh của công nhân, trong khi những nhà lãnh đạo chính trị tỉnh táo sẽ tìm mọi cách để cải thiện vị thế của mình, dù cái giá phải trả là giảm thiểu liên hệ với Moskva.
Những khối quần chúng đang đi theo các lãnh tụ cộng sản sẽ dễ dàng bỏ rơi họ một khi nhận ra rằng người cộng sản sẵn sàng hi sinh các biểu hiện dân tộc và những cơ hội cụ thể của giai cấp công nhân vì bản chất quan liêu, vì chế độ “chuyên chính vô sản” và các quan hệ với Moskva của họ.
Tất cả những điều vừa nói dĩ nhiên chỉ là giả thiết
Hiện nay các đảng đó đang rơi vào tình trạng cực kì khó khăn. Nếu thực sự muốn theo con đường nghị trường, các lãnh tụ của họ phải từ bỏ đường lối chống nghị trường, nghĩa là ủng hộ chủ nghĩa cộng sản dân tộc, mà như thế – nếu tính đến vị trí của họ hiện nay – cũng có nghĩa là sự phân liệt của các đảng này. 
Đấy chính là khởi đầu của một cuộc khủng hoảng trong các đảng cộng sản ở các nước phi cộng sản. Chuyển sang lập trường cộng sản dân tộc thì có nguy cơ đánh mất bản chất, mà không chuyển thì mất người ủng hộ. Để thoát khỏi mâu thuẫn này, các lãnh tụ, nghĩa là những người đại diện cho bản chất cộng sản sẽ phải rất khéo léo. Nhưng họ cũng khó ngăn chặn được quá trình tan rã. Họ sẽ mâu thuẫn với những xu hướng phát triển mới cả trong nước cũng như trên trường quốc tế. 
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc trong các nước phi cộng sản nhất định sẽ dẫn tới sự li khai với chính phong trào cộng sản, sự tan rã của các đảng cộng sản. Cơ hội của chủ nghĩa cộng sản dân tộc trong các nước phi cộng sản là rất lớn, nhưng chắc chắn nó sẽ dẫn đến việc li khai với phong trào cộng sản. 
Khi xem xét những đảng cộng sản không nắm quyền, ta thấy rằng chủ nghĩa cộng sản dân tộc, mặc dù, với ý định “làm mới” chủ nghĩa cộng sản “nói chung” hay với ý định củng cố nó, nhưng đồng thời đấy lại là một một dị giáo, nó nhất định sẽ phá nát cái chủ nghĩa cộng sản “nói chung” ấy. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc chứa đầy mâu thuẫn nội tại. Về bản chất, nó vẫn là cộng sản Xô viết, nhưng về hình thức, nó lại có xu hướng tách ra, mang màu sắc dân tộc. Trên thực tế, đấy là chủ nghĩa cộng sản trong giai đoạn suy đồi, giai đoạn thoái trào.
Công trình nghiên cứu của Milovan Djilas hoàn thành năm 1957. 
Lúc này tác giả chưa quan tâm tới tình trạng Trung cộng và Việt cộng, Bắc Triều tiên và Cuba. Ông đã sớm chỉ ra rằng “chủ nghĩa cộng sản dân tộc” tồn tại là tất yếu. Tuy nhiêng ông không biết rằng Đảng cộng sản Việt Nam đi theo hướng dân tộc chẳng phải vì lợi ích dân tộc và giai cấp mà vì tình trạng bị quốc tế cộng sản bỏ rơi. Cụ thể là vì chỗ dựa Liên Xô sụp đổ, Trung cộng trở mặt làm thù địch.
Theo quan điểm của Milovan Djilas, CNCS bước vào giai đoạn PHI GIÁO ĐIỀU, đó sẽ là giai đoạn cuối cùng. Lý tưởng và lý luận chẳng còn vai trò gì quan trọng nữa. Vấn đề bây giờ là tìm một cái chính danh tạm bợ nào đó cho quyền lực. Cốt lõi bây giờ là gia tăng quyền lực tự bảo vệ, nhất là bạo lực.
Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc (中国特色社会主义). Đại hội XV đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 9 năm 1997 xác định mục tiêu là chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc[2], rằng hệ tư tưởng chính thức của nó vẫn dựa trên chủ nghĩa xã hội khoa học. Họ cho rằng Ý thức hệ này hỗ trợ việc tạo ra một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chi phối bởi các khu vực công. Trung cộng cho rằng họ không từ bỏ chủ nghĩa Mác nhưng đã phát triển nhiều thuật ngữ và khái niệm của lý thuyết Mác-xít để hàm chứa hệ thống kinh tế mới. Thực ra bắt đầu từ cuối năm 1978 Trung Quốc tiến hành cải tổ nền kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô viết sang nền kinh tế hướng thị trường rõ hơn nhưng vẫn trong khuôn khổ kiểm soát của Đảng. 
Chậm hiểu và chậm chân hơn TQ, vì còn mải bám riết theo Liên Xô, “chủ nghĩa xã hội Việt Nam” không chế tạo thêm được chữ nào noi theo Trung cộng. Tuy nhiên cũng học theo chiêu thức “Tư tưởng Mao Trạch Đông”, các nhà lý luận Việt Nam bèn chế tác ra “Tư tưởng HCM” bằng cách lý luận hóa những di sản ý kiến vụn vặt, văn bản lẻ tẻ và hành động của chủ tịch HCM. Trước sau, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ biết nói đơn giản, huỵch toẹt “chúng ta kiên định chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh”, một mặt ông ta thường xuyên thúc giục “Hội đồng lý luận TW” phải cố gắng mở “đột phá về lý luận”, nhưng vô vọng, mặc dù nhiều nhiệm kỳ đã trôi qua. Đó chỉ là liệu pháp tinh thần an ủi các “đồng chí”, cứ yên tâm có lý luận đây rồi (!).
Bây giờ, thậm chí không có bất cứ hai đảng cầm quyền nào chơi tử tế với nhau, đừng nói tổ chức sinh hoạt QTCS. Trung cộng và Việt cộng nửa thù nửa bạn. Trung cộng và Triều cộng kìm kìm, bực bội, dằn vặt hục hặc lẫn nhau. Việt cộng và Triều cộng như người dưng nước lã, khỏi cần thăm viếng lẫn nhau, chả ai cần ai. Chẳng những thế, Việt cộng còn chơi thân với Hàn Quốc, kẻ thù của Triều cộng. Cu ba cộng sản nay đang băn khoăn giữa ngã ba đường lịch sử …
Nhưng bất chấp tất cả, có thể do điếc không sợ súng, các đảng viên VN vẫn mấp máy môi hát “quốc tế ca” ! Nhhững lời ca vô cảm vô duyên vô nghĩa. Thậm chí bây giờ không cần hát, chỉ nín thinh, phó cho cái đĩa điện tử quay vòng vòng. Đó là hình ảnh tượng trưng của hàng triệu đảng viên im lặng, không bày tỏ chính kiến, chỉ giữ riêng trong lòng mình.
Ý kiến một độc giả 
Sau khi đọc công trình của Milovan Djilas, người ta cho rằng ông Việt Phương một lão thành cách mạng đã nói về vòng đời 5 giai đoạn của CNCS và ĐCS cầm quyền.
Đảng cộng sản cầm quyền tự xưng có vòng đời trải qua 5 giai đoạn:
1.Lý tưởng, 2. Giai cấp mới, 3. Toàn trị , 4. Khủng hoảng, 5. Sự rút lui
Nay họ đang loay hoay bước vào giai đoạn 5
[1] *. Căn cứ cái tên đó, nhà báo kinh tế học Đào Trinh Nhất từ năm 1924 đã gọi chủ nghiã Marx- Lê Nin là “chủ nghĩa lao nông” . Ông là người Việt Nam đầu tiên tiên dự đoán chủ nghĩa Mác- Lê Nin sớm muộn sẽ thất bại. (xem sách “Thế lực khách trú và công cuộc di dân Nam Kỳ”- Nxb Hội nhà văn Việt Nam tái bản 2016). 
[2]* . “Đặc sắc” có nghĩa: ưu điểm riêng biệt. Nhiều người Việt Nam thường hiểu nhầm và nói “CNXH màu sắc Trung Quốc”. 
* Đọc sách GIAI CẤP MỚI của Milovan Djilas, bản dịch Phạm Nguyên Trường

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)