Việt Nam Thời Báo

VNTB – Miền Tây: Vùng châu thổ bị tàn phá ( bài 4-5)

Hồ Phương Trinh

 

(VNTB) – Đang thiếu ăn mà đi đến xuất khẩu gạo thì các đỉnh cao trí tuệ choáng ngợp, bèn nghĩ cách sao cho lượng gạo xuất khẩu được nhiều hơn.

Miền Tây: Vùng châu thổ bị tàn phá ( bài 1-3)

 

Các công trình “ngọt hoá’ thất bại

 

Công đập Ba Lai 

Miền châu thổ sông Cửu Long có nhiều vùng, khác nhau thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, về mức độ cao ráo hay trũng thấp.

Miệt vườn là gì?

Là vùng được khai thác đầu tiên trong quá trình mở đất. Các vùng đất cao ven sông rạch là nơi lý tưởng để cất nhà, lập vườn. ĐÀO MƯƠNG LÊN LIẾP là một kỹ thuật làm vườn rất khoa học của dân miền Tây. Đào mương lấy đất đắp lên liếp, liếp rộng hẹp tùy loại cây trồng. Trong một mảnh vườn thì các liếp , mương song song nhau, và mương luôn luôn thông ra sông rạch. Nước từ sông rạch ra vô mang phù sa cho vườn. Mặt liếp cao hơn nước mương chừng 4-5 tấc nên hầu như là không phải tưới vườn. Mỗi năm vét bùn (là phù sa lắng xuống dưới mương) đắp lên mặt liếp một lần, gọi là bồi vườn. Trong miệt vườn cũng có ruộng xen kẽ, chứ không có cánh đồng cò bay thẳng cánh. Nếu đủ tài lực thì người ta sẽ “lên vườn” tức là đào mương lên liếp để lập vườn. Vườn cho huê lợi cao hơn ruộng. Dân miệt vườn ai cũng có mảnh vườn của mình, không có chuyện dân miệt vườn cho thuê hay đi thuê vườn để trồng trọt. Người ta cất nhà trong vườn luôn, thường là quay mặt ra sông rạch.

Như đã nói bài trước, miệt vườn vùng gần biển thì sẽ có mùa nước lợ, người ta trồng dừa. Lên xa biển hơn, nước ngọt quanh năm thì trồng cam, xoài, vú sữa, sầu riêng v.v… Vùng nước ngọt thì người ta uống nước sông. Vùng có vài tháng nước lợ thì hứng nước mưa uống. Nước tắm giặt thì cuối mùa mưa người ta đắp một cái đập trong một con mương vườn sát nhà để giữ nước ngọt trong con mương đó mà xài. Các con mương khác trong vườn vẫn thông với sông rạch. Hết mùa hạn thì phá đập ra để lấy nước sông trở lại

Ở chỗ đất GIỒNG thì đào giếng lấy nước ngọt. Giếng đào 5-10m là có nước. Đất giồng gần biển cũng đào được giếng nước ngọt quanh năm.Trong miệt vườn có nhiều địa danh GIỒNG : Giồng Trôm, Giồng Tre, Giồng Trường, Giồng Quéo…

Nói chung là dân miệt vườn không thiếu nước ngọt, nước cho canh tác và nước uống.

Đập Ba Lai

Là cái đập xây để chặn nước mặn từ biển vào sông Ba Lai. Dự án “ngọt hóa” cho miệt vườn hai bên sông Ba Lai, từ sông Cửa Đại đến sông Hàm Luông gồm các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Châu Thành, Bình Đại và Thành phố Bến Tre, nghĩa là hơn một nửa tỉnh Bến Tre. Đập được khởi công năm 2000 và hoàn thành, đưa vào sử dụng năm 2002.

Bến Tre là tỉnh ven biển, sông bao bọc khắp phía. Từ xưa người dân đã sinh sống trồng trọt cày cấy, đánh bắt tôm cá v.v…thuận theo sự xoay vần tự nhiên của mưa nắng, con nước. Nước ngọt thì làm gì, nước lợ làm gì, mưa trồng gì, nắng trồng gì thì nông dân đã thành thuộc. Tự nhiên bây giờ “ngọt hóa” hết thảy, rồi nói nhờ ngọt hóa mà thau chua rửa phèn gì đó. Có chua có phèn đâu mà thau mà rửa???

Ngăn dòng chảy sông làm cho những người làm nghề đóng đáy thất thu nặng nề. Nước bị ngăn lại làm cho miệt vườn không còn là nơi sông sâu nước chảy, liếp vườn hết phù sa, mương vườn thành nơi ao tù nước đọng. Ngọt hóa không làm tăng năng suất cho vuờn cho ruộng, cũng không chuyển đổi được từ cây dừa sang cây sầu riêng. Chỗ đang nuôi tôm thì nước không đủ mặn để nuôi, chỗ đang làm muối thì nước không đủ mặn để làm muối, đành thất nghiệp!

Ủa, tai sao cứ phải ngọt hóa để trồng lúa, trái cây? Giá lúa rẻ mạt, có tăng thêm bao nhiêu đi nữa thì cũng đâu thêm được nhiêu tiền (bán bao nhiêu tấn lúa mới mua được một cái Iphone?) mà đổi lại hệ sinh thái bị đảo lộn, sinh kế của người dân bị đảo lộn, và khi nhận ra sai lầm thì không thể vãn hồi được!

Nhưng ngọt hóa cũng đâu có thành công, không biết do kỹ thuật đắp đập hay do gì khác mà rồi nước mặn cũng vô tuốt luốt. Năm 2016, 2020 ở quê nội tôi xã Hưng Nhượng, Giồng Trôm ở trong vùng ngọt hóa, mà cũng bị “hạn mặn” gay gắt như ai ở vùng không được ngọt hóa!

Lắm lúc tôi cũng suy nghĩ, hay là chuyện ngọt hóa này có ẩn tình gì chăng?

Trên đây là tôi nói theo thực tế tai nghe mắt thấy vì tôi quê Bến Tre. Người dân thấp cổ bé họng nói ai nghe? Nhưng hồi năm 2018 một số nhà khoa học độc lập có lên tiếng đòi đánh giá hiệu quả của cống đập Ba Lai sau 16 năm vận hành để rút kinh nghiệm cho những dự án ngọt hóa khác sắp triển khai, nhưng tất cả đều bị bỏ qua, và lại một dự án ngọt hóa mới toanh vừa hoàn thành trong năm 2022 ở Kiên Giang.

Vùng ngọt hóa của đập Ba Lai

 

Cù lao đánh dấu sao: sáu tháng nước ngọt sáu tháng nước mặn. Trên cù lao có giếng nước ngọt quanh năm. Tôi đã đi đến cù lao đó

 

Ngọt hoá bán đảo Cà Mau 

Bán đảo Cà Mau là vùng trên bản đồ, từ vạch tím về phía Nam, đến mũi Cà Mau. Từ vạch tím lên phía bắc là vùng Thốt Nốt, Cần Thơ là miệt vườn sông sâu nước chảy vườn tốt ruộng tốt từ hồi xửa xưa, không cần làm thêm thủy lợi gì nữa.

Trong bán đảo Cà Mau có mấy vùng khác nhau về thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, hệ sinh thái. Vùng Mũi Cà Mau, (trên bản đồ là địa phận tỉnh Cà Mau) có các con sông đổ ra biển Đông, biển Tây (vịnh Thái Lan). Vùng này kinh rạch chằng chịt, nước sông chịu ảnh hưởng của thủy triều hai phía biển. Khi thủy triều lên nước biển hai phía Đông Tây chảy vào sông và gặp nhau ở vùng mà người địa phương gọi là vùng “giáp nước”. Vì thủy triều biển Đông cao hơn biển Tây nên vùng giáp nước lệch về phía Tây. Hiện nay còn địa danh cầu Giáp Nước. 

Mùa khô thì nước mặn vô sâu nội địa nhưng mùa mưa thì nước ngọt, nước lợ. Vùng này xưa kia là rừng đước rừng tràm. Sau khi khai phá (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) thì người ta trồng lúa trong mùa mưa nước ngọt, mùa nắng thì nuôi tôm cá quảng canh, tức là cuối mùa mưa sau khi thu hoạch lúa thì cho nước mặn tràn vô, đem theo cá tôm giống. Giữ nước lại nuôi trong vài tháng, khi tới mùa kiệt, nước mặn nhiều thì đánh bắt lên bán và để ruộng tự nhiên chờ đến khi mưa xuống đủ ngọt lại trồng lúa. Đại khái là giống như mô hình lúa tôm bây giờ nhưng nuôi,trồng hoàn toàn tự nhiên.

Vùng phía đông bắc tỉnh Cà Mau tức là Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, từ thời “thực dân” Pháp họ đã đào nhiều kinh dẫn nước từ sông Hậu vô. Kinh Xà No từ rạch Cần Thơ tới sông Cái Lớn ở Vị Thanh (đường số 1 trên bản đồ). Ngã Bảy, Ngã Năm là nơi bảy con kinh, năm con kinh từ đó tỏa đi khắp miền Hậu Giang. Kinh Quản Lộ – Phụng Hiệp từ Ngã Bảy tới Cà Mau, đi qua Ngã Năm (đường số 2 trên bản đồ). Nhờ hệ thống kinh đào này mà vùng Bạc Liêu được khai phá trở thành vùng đất ruộng cò bay thẳng cánh. Điền chủ ở Bạc Liêu là đại điền chủ so với các điền chủ ở Gò Công, Trà Vinh… là những vùng đất “cũ” khai phá từ trước. Công tử Bạc Liêu giàu có cũng nhờ cha là đại điền chủ xứ Bạc Liêu. Từ đầu thế kỷ 20 cho tới trước 1945 lượng lúa xuất cảng của miền Tây cứ tăng theo thời gian.

Dưới thời “đế quốc Mỹ”, nhờ luật Người Cày Có Ruộng của VNCH và khoa học Canh Nông được áp dụng mà nghề nông ở vùng bán đảo Cà Mau này phát triển vượt bực. Máy cày, máy bơm nước rất phổ biến. Cho đến trước 1975 thì vùng Ba Xuyên ( Bạc Liêu, Sóc Trăng) có sản lượng lúa cao nhứt miền Tây.

Tại sao sau ’75 lại bị thiếu đói?

Dài dòng lắm, do chính sách hợp tác hóa sai lầm, do ngăn sông cấm chợ nên vật tư nông nghiệp không lưu thông phân phối được, do cao ngạo nghỉ chơi với đế quốc nên bị cấm vận v.v… nên vùng châu thổ phì nhiêu mà sản xuất lúa gạo bị thiếu ăn, còn tệ hơn thời thực dân Pháp!

Sau khi “mở cửa” năm ’86 thì chỉ mấy năm thôi, là năm ’89 ta đã lần đầu tiên xuất khẩu gạo sau ngày “giải phóng”. Trong mấy năm ngắn ngủi từ khi mở cửa đến khi xuất khẩu gạo đảng ta chưa kịp làm công trình thủy lợi gì ở miền Tây, cũng chưa kịp chỉ đạo gì mà sản lượng lúa vẫn tăng cao. Đang thiếu ăn mà đi đến xuất khẩu gạo thì các đỉnh cao trí tuệ choáng ngợp, bèn nghĩ cách sao cho lượng gạo xuất khẩu được nhiều hơn. Từ đó mới nảy ra các công trình thủy lợi: đê bao “chống lũ” ở tứ giác Long Xuyên, “ngọt hóa” khắp nơi từ bán đảo Cà Mau tới Bến Tre, Gò Công, tất cả là để tăng sản xuất lúa vụ ba. Ở tứ giác Long Xuyên thì bao đê để làm lúa vụ ba luôn trong mùa nước nổi. Những vùng bị nước mặn xâm nhập thành nước lợ trong mùa kiệt thì phải đắp đập ngăn nước biển, phải “ngọt hóa” để làm lúa trong mùa kiệt mới chịu. Tất cả cho sản xuất lúa!

Làm sao để ngọt hoá? 

Nhìn bán đảo Cà Mau, hai bên là biển, phía đông bắc là sông Hậu. Muốn ngăn nước mặn thì phải bịt kín hết những lối thông ra biển, mà ở vùng kinh rạch chằng chịt, đi đường thủy nhiều hơn đường bộ thì việc này khá tốn kém. Khi đắp đập như vậy thì mực nước hai bên đập sẽ chênh lệch nên phải xây âu thuyền thì thuyền bè mới đi qua được chỗ nước chênh lệch đó. Dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau với rất nhiều cống, đập và một âu thuyền Tắc Thủ, tốn kém nhiều tiền của nhưng thất bại từ trong trứng nước.

Vì sao thất bại?

Vào những năm 199s, dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau được triển khai. Hệ thống cống đập xây lên nhưng nông dân không đồng tình. Xây đập ngăn mặn nhưng nước ngọt không đủ, trồng lúa không trúng mùa mà nuôi tôm không được. Thêm nữa sông rạch bị bít đường chảy gây ô nhiễm nguồn nước. Cuối năm 1998 nông dân Cà Mau hè nhau phá cống bửa đập để lấy nước mặn vào nuôi tôm. Trước áp lực của nông dân, năm 2000 Chính Phủ đã ra nghị quyết cho phép chuyển đổi đất trồng lúa không hiệu quả sang nuôi tôm. Thế là dự án ngọt hóa chết yểu. Vậy mà âu thuyền Tắc Thủ, một hạng mục của dự án ngọt hóa vẫn được khởi công vào năm sau, năm 2001 với kinh phí 80 tỉ đồng lúc đó, từ khi khánh thành là bỏ hoang luôn cho tới bây giờ, trở thành đống sắt thép mục nát!

Những cống đập đã xây thì cứ bỏ ngỏ, nhưng cũng gây ách tắc dòng chảy, nhiều nơi bị bồi lắng, bị ô nhiễm vì nước chưa thoát ra được đã chảy trở vô. Đường giao thông thủy cũng bị trở ngại vì các đập này, nhưng nông dân Cà Mau rất thông minh, họ đã sáng chế một hệ thống ròng rọc kéo ghe thuyền qua đập trong vòng một nốt nhạc!

(còn tiếp kỳ sau: Tái khởi động “ngọt hóa” Cà Mau bằng dự án đập sông Cái Lớn Cái Bé: thất bại được thấy trước)


 

 

Tin bài liên quan:

VNTB – Miền Tây: vùng châu thổ bị tàn phá ( bài cuối)

Do Van Tien

VNTB – Xâm nhập mặn đang đe dọa miền Tây

Bùi Ngọc Dân

VNTB – Mùa nước nổi xưa và nay 

Do Van Tien

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Việt Nam Thời Báo