THƯ NGỎ
GỬI BỘ CHÍNH TRỊ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRÁCH NHIỆM CÁC VỊ PHẢI HÀNH ĐỘNG . CỨU ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Nhà báo Lê Phú Khải
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang bị Trung cộng ích kỷ và đểu cáng bức tử. Chúng đã xây dựng một chuỗi 8 con đập thuỷ điện với tổng công suất 15.400 MW ngay trên dòng chính thượng nguồn sông Mekong!
Trung cộng còn giúp các nước Thái Lan, Lào xây các đập thuỷ điện trên dòng Mekong, chặn dòng nước làm nên sức sống mạnh mẽ của ĐBSCL..
Hàng trăm ngàn hộ dân ĐBSCL đang chết khát nước ngọt! Hàng trăm ngàn hecta lúa chưa ngậm đòng đã chết lụi!
Tôi rất đau đớn và phẫn nộ khi thấy những người đang cầm quyền – dù không được dân bầu – vẫn thờ ơ vô trách nhiệm, chỉ lo sắp đặt, cơ cấu cho phe cánh của mình ở đại hội 13 sắp tới.
Thưa quý vị, với tư cách là phóng viên thường trú của cơ quan ngôn luận cấp trung ương tại ĐBSCL hơn 10 năm, và đặc trách theo dõi đồng bằng 10 năm sau đó, tôi đã viết hằng ngàn tin, bài cho đài báo, và đã xuất bản 6 đầu sách về vùng đất ĐBSCL mà tôi yêu quý gắn bó. Ba trong sáu cuốn sách đó đã được tái bản, có cuốn được tái bản đến lần thứ hai như cuốn Đồng Tháp Mười hôm nay. Cuốn cuối cùng là Đồng Bằng Sông Cửu Long – 40 Năm Nhìn Lại được in năm 2015 có độ dày 360 trang.
Trong những cuốn sách được viết bằng mồ hôi và trí tuệ đó của tôi, tôi đã phản ánh, dự báo tất cả những hiểm hoạ đe doạ ĐBSCL là thiếu ngọt và xâm nhập mặn. Sách được bán hết và còn tái bản, nhưng chỉ có các cháu sinh viên, các nhà trí thức, nhà nghiên cứu mua! Tức là những người không có quyền lực gì đọc (!). Tôi có “điều tra” phỏng vấn một vài vị bộ trưởng, trong đó có bộ trưởng nông nghiệp và cán bộ lãnh đạo ở ĐBSCL, không ai đọc sách của tôi cả! Thậm chí, có Tổng bí thư, tôi gửi tặng sách, cũng không hề có hồi âm! Với tư duy nhiệm kỳ, người ta còn lo giữ ghế và vơ vét!
Mỗi năm, dòng sông Mekong vĩ đại và thiêng liêng chảy đi 500 tỷ mét khối nước, với lưu lượng 13.200 m3/giây, chuyên chở 1000 triệu tấn phù sa màu mỡ. Đó là sự “hẹn hò của lịch sử” chờ đón người Việt đi khai hoang mở đất về phương Nam.
ĐBSCL tươi đẹp và đau khổ với 13% diện tích của cả nước, 18% dân số cả nước, có 47% diện tích đất lúa cả nước, có sản lượng 56% lúa cả nước, chiếm 90% lượng gạo xuất khẩu. Hằng năm. ĐBSCL có 40% sản lượng thuỷ sản của cả nước và 60% sản lượng xuất khẩu thuỷ sản. Riêng con cá tra, trong sổ tay phóng viên thường trú của tôi, năm 2008 sản lượng đạt 1,2 triệu tấn, xuất khẩu 640.829 tấn, trị giá xuất khẩu đạt 1,453 tỷ USD, chiếm 32,2% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản cả nước.
Chính 18 triệu nông dân ĐBSCL chứ không phải ai khác, đã cứu nguy cho đất nước và nhờ đó chế độ đang cai trị đất nước đứng vững được sau những năm khốn khó của thời kỳ bao cấp và Liên Xô sụp đổ, bằng xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới. Với 2,5 triệu hecta đất nông nghiệp, năm 1990 ĐBSCL đã tạo ra sản lượng 12 triệu tấn lúa, bằng 50% tổng sản lượng lúa của Thái Lan canh tác trên 9,5 triệu hecta. Đến năm 1999, đã xuất khẩu được 4,4 triệu tấn gạo.
Vậy mà, đến nay mặn xâm lấn vào sâu đến 70 km, dân chết khát nước ngọt mà không thấy ai có quyền, có trách nhiệm ở đất nước này nói năng gì, ngoại trừ vài hình ảnh ĐBSCL đang chết khát trên VTV!
Các vị lãnh đạo lớp trước có trách nhiệm với ĐBSCL như Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ra quyết định 99TTG, và quyết liệt thực hiện quyết định này trong 5 năm với vốn đầu tư 7.100 tỷ (năm 1966) đã giúp nông dân ĐBSL đứng vững và làm nên kỳ tích xuất khẩu lúa gạo. Ông Kiệt đã từng nói với người viết những dòng chữ này rằng: Với ĐBSCL không có lũ cũng là thiên tai!
Ông còn nói: Mọi tư duy của ĐBSCL phải xuất phát từ khả năng cung cấp nước ngọt. Cái gì cũng có thể làm ra, nhưng phù sa nước ngọt thì không thể làm ra được, một giọt nước sông Tiền sông Hậu là một giọt vàng! Nhà lãnh đạo tâm huyết và sáng suốt của ĐBSCL đã đi xa. Nhớ đến ông tôi không khỏi ngậm ngùi.
Nay thời thế đã thay đổi, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam là bon thống trị ở bên Tàu đã xây đập ngăn những “giọt vàng” chảy về hạ nguồn.
Khai mở cho kẻ thù mặn xâm nhập ĐBSCL, chúng quyết tâm bóp chết cái dạ dày của Việt Nam. Để có chiến lược cho ĐBSCL trong tương lai, trước hết phải nhận diện kẻ thù mặn ở đồng bằng trong quá khứ một cách khoa học, căn cơ.
Mặn được đánh giá là tài nguyên, nhưng mặn chỉ phù hợp với dải rừng đất ướt ven biển, với những nơi hội tụ đủ điều kiện nuôi trồng thuỷ sản đem lại lợi nhuận cao, nhanh và nghề làm muối. Trái lại, mặn huỷ diệt cây trồng nông nghiệp và kìm hãm phát triển dân cư, gây trở ngại lớn cho cuộc sống con người. Vì thế mà các nước giàu có như Mỹ, Nhật chỉ tiêu thụ tôm chứ không nuôi tôm. Vì như Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có lần nói: Ngọt là môi trường cao cấp và còn cần cho công nghiệp hoá.
Ở những vùng nhiễm mặn ĐBSCL, từ lâu, mặn đã bị coi là “kẻ thù” của nông dân. Vì thế từ chỗ hoàn toàn phụ thuộc nước trời mùa mưa, ở vùng mặn, người nông dân đã biết “luồn lách” để sống! Họ tìm cách be bờ giữ ngọt, quai đê lấn biển, đào kênh dẫn ngọt, trữ ngọt mùa mưa, tiết kiệm mùa khô. Ở vùng mặn chỉ làm được một vụ lúa trông vào nước trời, năng suất thấp.
Khát khao đổi đời của người nông dân vùng mặn ĐBSCL kéo dài theo năm tháng. Nhưng ngọt hoá cả một vùng rộng lớn thì sức của người nông dân cá thể không làm nổi. Trước 1975, chính quyền Sài Gòn cũng đã có chương trình ngăn mặn, ngọt hoá Gò Công nhưng chưa làm được.
Từ năm 1975, bằng nỗ lực của nhà nước và nông dân, sau nhiều năm cố gắng, các công trình thuỷ lợi đầu mối dẫn ngọt – ngăn mặn, nhằm ngọt hoá nhiều vùng đất rộng lớn đã hoàn thành.
Phải lần lượt kể đến những chương trình ngọt hoá Gò Công cho 54.000 hecta, Tầm Phương – Trà Vinh cho 7.000 hecta, Vàm Đồn – Bến Tre cho 8.000 hecta… và các chương trình lớn, có tác dụng dẫn ngọt, ngăn mặn cho hàng trăm ngàn hecta như Nam Măng Thít (Trà Vinh – Vĩnh Long), Quản Lộ – Phụng Hiệp (bán đảo Cà Mau) của Quyết định 99TTG.
Nước ngọt phù sa từ sông Tiền, sông Hậu đưa về đã xoá bỏ được bao cuộc đời mặn chát cơ hàn bấy lâu nay. Những ai đã từng chứng kiến mùa khô dài dằng dặc, đất nẻ tận đáy ao, gió chướng mang nặng hơi mặn từ biển dội vào tàn phá làng mạc, mới thấy hết giá trị của những dòng nước ngọt đem đến cho nông dân vùng mặn ở ĐBSCL.
Lúa từ một vụ năng suất thấp đã ùa lên thành ba vụ năng suất cao. Rồi vườn tược, cây trái mọc lên từ phù sa nước ngọt. Huyện Gò Công Đông nghèo đói, các băng cướp ở Sài Gòn xưa kia, đều có lý lịch là dân Gò Công! Nay Gò Công làm 3 vụ lúa có chất lượng cao, bán được giá nhất tỉnh, hơn cả vùng Cai Lậy, Cái Bè ở phía Tây nổi tiếng giàu có xưa nay, đó là điều mới lạ ở Tiền Giang.
Ở huyện Vĩnh Lợi nằm trong vùng ngọt hoá bán đảo Cà Mau, những tá điền nghèo khó của công tử Bạc Liêu xưa kia, nay bỗng nhiên có nhà tường sáng choang nhờ nước ngọt của sông Hậu đã được dẫn về vùng hạ. Bà con ở xã Vĩnh Sơn huyện Vĩnh Lợi cho tôi biết, nhờ có nước ngọt làm được 3 vụ lúa, lại nuôi được cá nên xã đã xuất hiện một cái chợ sầm uất, có cửa hàng vật liệu xây dựng cung cấp nguyên vật liệu cho nông dân lên nhà tường. Chương trình Ngọt hoá của Quyết định 99TTG đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của một vùng đất đai rộng lớn có mật độ dân cư cao của ĐBSCL.
Nhưng anh bạn 4 tốt 16 chữ vàng đã dã tâm triệt hạ ĐBSCL của Việt Nam bằng những con đập chặn dòng phù sa nước bạc, nước vàng.
Không thể ngồi yên chờ chết, cũng không thể “dọn” ĐBSCL đi xa anh hàng xóm bất lương. Phát biểu của Giáo sư Võ Tòng Xuân (VTX) gần đây đã gây được chú ý của đông đảo người Việt Nam có quan tâm đến số phận của đồng bằng. Thật bất ngờ (Lịch sử thường đi những lối bất ngờ – Tố Hữu), trước đây Giáo sư VTX đã phát biểu, một người của công chúng khi phát biểu thường được nhiều người nghe theo, rằng, ở đâu có nước mặn là nuôi tôm, bất kể việc quy hoạch vùng mặn – ngọt của chính phủ! Ý kiến của Giáo sư VTX đã được Thủ tướng Võ Văn Kiệt phê phán ngay. Nhưng thời thế đã thay đổi, lịch sử đã đi “những lối bất ngờ”! Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, nước ngọt bị chặn dòng thì những ý kiến tìm cách thích nghi với mặn để chung sống với nó của Giáo sư VTX là vô cùng xác đáng.
Giáo sư VTX có cả một chiến lược trong đầu, trồng cây gì, nuôi con gì, giảm diện tích lúa kém hiệu quả để nuôi trồng cây con chịu được mặn cho ĐBSCL mà ông đã từng nói cho tôi nghe.
Vì vậy, những người có quyền lực tối cao ở đất nước hôm nay là Bộ Chính trị phải có trách nhiệm và có chính sách quyết đoán mạnh mẽ về ĐBSCL trước khi quá muộn.
Năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã triệu tập một hội nghị bàn về các biện pháp thích nghi cho ĐBSCL trước biến đổi khí hậu. Hội nghị triệu tập đến 500 đại biểu, diễn ra trong 2 ngày, có cả chuyện Thủ tướng đi máy bay thị sát ĐBSCL. Đó là chuyện tào lao, vô bổ, nếu không muốn nói là hình thức và mang tính chất “bầy đàn”! 500 con người thì ai nói ai nghe? Mà biết gì để nói?! Có đại biểu còn gây cười cho mọi người đến mức ông ta phát biểu: Khô cũng là tiềm năng!
Hơn 10 năm làm phóng viên thường trú ở ĐBSCL, dẫm nát các nẻo đường của mảnh đất bằng phẳng đến kỳ lạ này, tiếp xúc từ người trồng lúa, nuôi tôm, xin số điện thoại của họ để tiện liên lạc, thông tin, đến gặp gỡ Thủ tướng chính phủ để nghe các quyết sách cho đồng bằng, tôi đề nghị, sắp tới phải có một hội nghị khoa học để bàn chiến lược lâu dài cho đồng bằng. Hội nghị này chỉ mời tối đa là 50 đại biểu và không hạn chế thời gian cho đến khi ra được quyết sách cho đồng bằng.
50 đại biểu đó, ngoài 12 vị đứng đầu các tỉnh thành ở ĐBSCL, còn lại phải là các nhà khoa học hàng đầu, từng đóng góp cho ĐBSCL những năm qua như: giáo sư Võ Tòng Xuân, tiến sỹ Tô Văn Trường, giáo sư Nguyễn Văn Luật, tiến sỹ Vũ Trọng Khải, tiến sỹ Phạm Văn Kim, tiến sỹ Nguyễn Chí Sơn, cô giáo Trần Thị Thu Ba, tiến sỹ Mai Thành Phụng, tiến sỹ Mai Văn Quyền, tiến sỹ Lê Thanh Hải, tiến sỹ Nguyễn Bảo Vệ, giáo sư Đào Xuân Học, bác sỹ thú y Vũ Ngọc Xuyến, thạc sĩ Mai Oanh…, các cán bộ khoa học trẻ ở Đại học Cần Thơ, Đại học An Giang, cán bộ quản lý có kinh nghiệm và uy tín như nguyên chủ tịch tỉnh An Giang Nguyễn Minh Nhị… Ngoài ra, cần mời các nhà báo, nhà văn ở đồng bằng có tiếng như Nguyễn Ngọc Tư, nhà thơ Lê Chí, nhà văn Phan Trung Nghĩa… Về phía quốc tế, cần mời bằng được các chuyên gia của Uỷ hội Sông Mekong, các nhà khoa học Israel… Và, cuối cùng, không thể thiếu tiếng nói của nông dân, những người trồng lúa giỏi, nuôi tôm cá giỏi, làm vườn giỏi… đó là trí tuệ của ĐBSCL.
Theo thiển ý của tôi, và đã tập hợp ý kiến của nhiều nhà khoa học đã phát biểu trên mạng xã hội vừa qua, thì, nội dung của hội nghị khoa học 50 người đó sẽ có 3 vấn đề phải đem ra mổ xẻ và kết luận:
Một là, chuyển đổi cây trồng để thích nghi với mặn. Chuyển đổi một số diện tích lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm, hoặc một vụ tôm, một vụ lúa vào mùa mưa như ở Sóc Trăng. Nghiên cứu, thí điểm những cây con chịu được mặn.
Hai là, tích ngọt. Chúng ta có cả 6 tháng mùa mưa với một lượng nước ngọt trời cho và vô tận. Tôi đã có lần đi theo một đoàn du lịch quốc tế của Công ty Du lịch Vĩnh Long. Nhân viên hướng dẫn du lịch phát cho mỗi khách lữ hành một cái áo mưa. Khi trời mưa rất to ập đến, mọi người đều mang áo ra mặc. Duy chỉ có một vị khách không mặc áo mưa và để cho người ướt đẫm suốt nhiều tiếng đồng hồ. Tôi thấy lạ và đã phỏng vấn người khách này, nên được biết, ông ta là công dân Israel. Nước ông ta quanh năm không có mưa, toàn sa mạc, bởi vậy ông muốn dầm mưa cho… đã!
Nước Israel ấy ngày nay là một nước nông nghiệp tiên tiến hàng đầu trên thế giới, ở đó người ta quý trọng và tiết kiệm từng giọt nước ngọt. Còn chúng ta? Có nên đào ao chứa nước ngọt vào mùa mưa hay không? Xin các vị hãy bàn thảo cho kỹ.
Tôi đã có lần lặn lội cả tháng trời ở huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau để viết phóng sự điều tra về tình trạng tôm nuôi chết nhiều năm 2005. Tôi đã được thấy nhiều gia đình nông dân làm ăn căn cơ đã xây bể lớn để trữ nước ngọt xài trong mùa khô. Có nhà không xây bể thì sắm hàng chục cái chum lớn để trữ ngọt. Vậy điều này nông dân đồng bằng có làm được không? Sẽ tiến tới phải phát động toàn dân trữ ngọt, tiết kiệm từng giọt nước ngọt, phải đưa việc giáo dục tiết kiệm nước ngọt vào trường học cho các em học sinh có ý thức tiết kiệm nước ngọt, phải thay đổi toàn bộ tư duy về nước ngọt cho nông dân ĐBSCL, vì sông Mekong, nguồn nước ngọt mà thượng đế ban cho dân đồng bằng đang bị bức tử!
Ba là, cùng với việc giữ gìn nguồn nước ngọt là việc bảo vệ môi trường, tuyệt đối không xả rác, vứt xác súc vật chết xuống dòng nước ngọt hiếm hoi còn giữ được.
Chúng ta nhất định sống được, giữ được ĐBSCL nếu nhà nước và toàn dân đồng bằng quyết liệt chống lại dã tâm bóp chết ĐBSCL của giặc Tàu, như nhà nước và nhân dân đang chống giặc Vurus China hiện nay cũng do Tàu gây ra.
Tiến tới, Quốc hội phải ban hành những luật về bảo vệ nước ngọt ở ĐBSCL. Vì, đồng bằng ốm, thì cả nước Việt Nam sẽ yếu. Những mơ tưởng hão huyền về “đi tắt đón đầu đuổi kịp và vượt phương Tây trong vòng mươi, mười lăm, hai mươi năm” như tuyên bố của ông Thủ tướng vô tích sự Phạm Văn Đồng năm 1978 tại Hội nghị Khoa học toàn quốc họp tại Nhà hát lớn Hà Nội chỉ làm trò cười cho thiên hạ! Tuyên bố của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh năm 2010 rằng, đến năm 2020, Việt Nam sẽ thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại càng chứng tỏ thiểu năng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Việt Nam sẽ là một nước nông nghiệp kỹ nghệ cao, hiện đại là phù hợp với thực tế và lịch sử, trong đó ĐBSCL là một vùng trọng điểm của đất nước, là an toàn cho 130 triệu dân Việt như dự đoán về phát triển dân số tới đỉnh điểm trong tương lai…
Thật may mắn, bên cạnh những bộ óc thiểu năng của lãnh đạo, thì ngay trong cơn hoạn nạn hạn hán nặng ở ĐBSCL hiện nay, đã xuất hiện những người nông dân đầy sang tạo, biết thích nghi để tồn tại. Nông dân Nguyễn Văn Đổi ở thị trấn Long Phú, huyện Long Phú đã phát hiện ra giống bưởi da xanh chịu mặn. Ông Đổi đã trồng bưởi da xanh được 8 tháng phát triển tốt, trồng xen với cây sả. Bán gốc sả lấy tiền đi chợ hàng ngày, còn lá sả ủ cho gốc bưởi. Bưởi của ông bán được 5.000 đồng/ký.
Ở xã Định An, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, ông Phương nuôi 100.000 con cá lóc. Đoán trước tình trạng sẽ khô hạn, ông đã đào ao trữ ngọt từ mùa mưa. Đến nay, ông đã “chuyển hộ khẩu” (như lời của ông) cho cá sang ao nước ngọt, nên ông đã thắng.
Với những nông dân sáng tạo như thế, chúng ta có quyền tin tưởng. Có một chính quyền có trách nhiệm cùng lo toan với người dân, ĐBSCL sẽ lại tràn trề sức sống.
L.P.K
Ảnh 4 và 5:
Tác giả Lê Phú Khải làm việc với Thủ tướng Võ Văn Kiệt và giáo sư Võ Tòng Xuân