Việt Nam Thời Báo
(VNTB) – Dưới đây là bản dịch bản phúc đáp của chính phủ Việt Nam đề ngày 28/12/2020 đối với thư chất vấn của Cao Uỷ Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc về các nhà báo thuộc Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam, cùng Phạm Đoan Trang và Hồ Sỹ Quyết
*****
Phúc đáp của Việt Nam liên quan đến Phạm Chí Dũng, Nguyễn Trường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Lê Anh Hùng, Phạm Đoan Trang và Hồ Sỹ Quyết
Tham chiếu. AL VNM 3/2020 (ngày 17/09/2020)
1. Các cáo buộc được đưa ra trong Thư chất vấn chung là không chính xác, chủ yếu được rút ra từ các nguồn chưa được xác minh và không phản ánh bản chất của những trường hợp này. Các cơ quan chức năng của Việt Nam đã điều tra và truy tố đối với các ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Lê Anh Hùng, Phạm Thị Đoan Trang và Hồ Ngọc Quyên vì vi phạm pháp luật Việt Nam, chứ không vì thực hiện các quyền tự do cơ bản. Các thủ tục pháp lý được thực hiện trên cơ sở pháp lý hợp lý, tôn trọng đầy đủ pháp luật Việt Nam và thống nhất với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Ở Việt Nam, các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và biểu tình ôn hoà được bảo vệ, không ai bị “đe doạ và sách nhiễu” vì thực hiện các quyền này. Điều 25 Hiến pháp Việt Nam 2013 đã bảo đảm rõ ràng rằng Công dân có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, và có quyền tiếp cận thông tin, quyền hội họp, quyền lập hội và quyền biểu tình. Để cụ thể hóa Hiến pháp Việt Nam năm 2013, khung pháp lý của Việt Nam đã có những quy định chi tiết và rõ ràng về quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền hội họp và quyền lập hội. Trong đó, Chương II Luật Báo chí năm 2016 quy định cụ thể về tự do báo chí, tự do ngôn luận về báo chí; Quy định cụ thể về quyền tự do ngôn luận về báo chí. Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 230 đến Điều 232) quy định pháp luật sẽ công nhận các hiệp hội được thành lập hợp pháp và bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản của họ; Chương XV Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về xử lý hình sự đối với quyền tự do cá nhân và quyền tự do của công dân, điều 0689 bao gồm Điều 167 quy định về xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin và quyền phản đối của công dân và Điều 163 quy định về xâm phạm quyền tự do ngôn luận của công dân; Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Tố cáo năm 2018 và nhiều luật khác có liên quan bảo vệ quyền của công dân khi quyền của họ bị xâm phạm, trong đó có hành vi quấy rối, đe dọa…
Trong thực tế, thảo luận tại Quốc hội về chính sách dân tộc; hội thảo, thảo luận và báo cáo đa chiều về các vấn đề kinh tế – xã hội, chính trị với sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội, chính trị và nhân dân… diễn ra hàng ngày . Thông qua các phương tiện truyền thông, mọi người có thể kiến nghị, bày tỏ quan điểm chính trị, và đóng góp công khai cho tất cả các vấn đề văn hóa, kinh tế-xã hội và chính trị. Tính đến 2019, Việt Nam có 64.000.000 người sử dụng Internet (66% dân số), 62.000.000 người sử dụng mạng xã hội (64% dân số). Ngoài việc sử dụng internet và báo chí cho mục đích giáo dục và kinh doanh, người Việt Nam thường sử dụng các công cụ này để bày tỏ ý kiến của mình về các vấn đề xã hội và về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, Việt Nam có gần 70.000 hội đang hoạt động, như các tổ chức và hội thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, người cao tuổi, người khuyết tật, các hiệp hội từ thiện, các tổ chức khoa học và dạy nghề, các tổ chức phi chính phủ. Các hiệp hội ở Việt Nam đã xây dựng và lên tiếng về các chính sách chính trị, xã hội cũng như các chính sách trong các lĩnh vực liên quan. Xây dựng và phát triển các hiệp hội, đặc biệt là các tổ chức cộng đồng ở các vùng nghèo, đã trở thành một trong những phương pháp giúp thực hiện quyền của người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương khác. Nhà nước Việt Nam mong muốn thúc đẩy sự tham gia của các hiệp hội trong công tác tại các địa phương và xây dựng mối quan hệ đối thoại, hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền với các tổ chức, hiệp hội.
Ở bất kỳ quốc gia pháp quyền nào, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận đi kèm với trách nhiệm và tôn trọng pháp luật của đất nước và quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức và xã hội. Những điều này phù hợp với các công ước quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền mà Việt Nam là một bên, bao gồm Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) (Điều 193, 21 và 22.2). Việt Nam chỉ truy tố và đưa ra xét xử những người vi phạm pháp luật, chứ không phải những người thực hiện các quyền hợp pháp của họ đối với quyền tự do ngôn luận và hội họp. Việc tạm giam và xét xử vi phạm pháp luật được thực hiện theo quy trình pháp luật Việt Nam.
3. Trường hợp của Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn
– Phạm Chí Dũng (sinh năm 1966, đăng ký hộ khẩu thường trú tại TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Tường Thụy (sinh năm 1950, đăng ký hộ khẩu thường trú tại TP Hà Nội), Lê Hữu Minh Tuấn (sinh năm 1989, đăng ký hộ khẩu thường trú tại tỉnh Quảng Nam) đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa, TP. Ho Chi Minh, với cáo buộc “làm, tàng trữ, phân phối hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ” theođiều 117 Bộ Luật Hình Sự. Sức khỏe của họ ở trong điều kiện bình thường.
Tháng 8 năm 2019, các cuộc điều tra ban đầu của công an cho thấy Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thuỵ và Lê Hữu Minh Tuấn đăng 63 bài viết bóp méo sự thật, kích động các cá nhân nổi loạn và lật đổ chính quyền nhân dân, gây lòng hận thù và cực đoan, gây hiểu lầm cho người dân về tình hình kinh tế-xã hội với quan điểm gây lo âu chung và bất ổn xã hội.
Ngày 18 tháng 11 năm 2019, cơ quan điều tra công an thành phố Hồ Chí Minh đã khởi tố hình sự, phát lệnh tạm giam và lệnh khám xét nhà Phạm Chí Dũng vì tội làm, lưu trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu và vật phẩm chống lại nhà nước Việt Nam theo điều 117 của bộ luật hình sự. Ngày 20 tháng 11 năm 2019, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã phê lệnh tạm giam và khám xét này. Các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thực hiện những lệnh này. Việc bắt giữ và giam giữ Phạm Chí Dũng và khám nhà của ông được giám sát theo quá trình tố tụng hình sự được quy định theo luật Việt Nam; các biên bản thủ tục tố tụng đã được tất cả các bên có liên quan như công an, nhân chứng và chính Phạm Chí Dũng ký kết.
– Qua mở rộng điều tra, cơ quan điều tra Công an TP.HCM đã khởi tố vụ án hình sự, thực hiện lệnh bắt tạm giam và lệnh khám xét đối với Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn; các lệnh này được ký kết lần lượt vào ngày 18 tháng 5 năm 2019 và 08 tháng 6 năm 2019. Sau khi Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phê chuẩn, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt và khám xét nhà riêng của họ
Vụ án vẫn đang trong quá trình điều tra.
Những thủ tục tố tụng hình sự này là bình thường và cần thiết để điều tra vụ án và thu thập bằng chứng bổ sung để thiết lập bản chất và mức độ nghiêm trọng của phạm nhân và xử án.
4. Quyền luật sư bào chữa và quyền thăm viếng gia đình
Theo Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tội phạm an ninh quốc gia, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền cho phép luật sư bào chữa tham gia tố tụng sau khi giai đoạn điều tra kết thúc. Quy tắc này được đưa ra nhằm đảm bảo bí mật cần thiết trong tiến trình điều tra vụ án. Sau khi giai đoạn điều tra kết thúc, bị cáo và luật sư bào chữa sẽ được phép chuẩn bị bào chữa tại phiên tòa như tiếp cận, sao chép tài liệu trong hồ sơ vụ án và sẽ không có giới hạn về số lần, thời gian gặp gỡ giữa bị cáo và luật sư bào chữa… Căn cứ Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định về thời điểm luật sư bào chữa cho Phạm Chí Dũng được tham gia tố tụng. Các luật sư đăng ký bào chữa cho Phạm Chí Dũng đã được thông báo bằng văn bản về các quy định này. Sau khi giai đoạn điều tra kết thúc, yêu cầu của bị can và luật sư bào chữa sẽ được giải quyết phù hợp với thủ tục tố tụng thông thường.
Khi giai đoạn điều tra vụ án đang được tiến hành, luật chỉ cho phép gia đình tiếp tế cho bị cáo; yêu cầu gặp mặt gia đình trong giai đoạn này không thể đáp ứng để đảm bảo tính bí mật của các cuộc điều tra đang diễn ra. Hiện tại, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa; với tình trạng sức khỏe bình thường. Họ được cung cấp đầy đủ thực phẩm, chỗ ở và chăm sóc sức khỏe theo quy định của Luật Tạm giữ và Tạm giam. Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt Nam khẳng định họ không bị biệt giam.
5. Trường hợp của Lê Anh Hùng
– Tháng 6/2018, qua một số nguồn tin, Công an TP Hà Nội phát hiện Lê Anh Hùng (sinh ngày 27/8/1973, đăng ký hộ khẩu thường trú tại đường Kim Giang, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, TP Hà Nội) có hành vi vi phạm pháp luật. Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập được, ngày 5/7/2018, Công an TP Hà Nội đã ra quyết định truy bắt, khám xét đối với Lê Anh Hùng để điều tra.
– Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn và kết luận các tài liệu do Lê Anh Hùng soạn thảo đã làm méo mó sự thật, kích động các cá nhân đứng lên lật đổ chính quyền nhân dân, 0669 lừa dối người dân về tình hình kinh tế – xã hội nhằm gây lo lắng dư luận và bất ổn xã hội với mục đích xấu; lạm dụng quyền tự do ngôn luận để tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật với những sai lầm cố ý. Hành vi của Lê Anh Hùng là tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân ” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.
– Cáo buộc Lê Anh Hùng bị buộc phải điều trị tại cơ sở tâm thần mà không có thủ tục tư pháp là vô căn cứ. Trong quá trình truy tố, do nghi ngờ Lê Anh Hùng không đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên ngày 6/3/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định trả hồ sơ bổ sung lê Anh Hùng và đề nghị cơ quan điều tra giám định tâm thần đối với Lê Anh Hùng. Ngày 24/9/2019, Viện Pháp y Tâm thần Trung tâm kết luận: “Trước đây, trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội và thời gian giám định, Lê Anh Hùng bị rối loạn tâm thần kéo dài. Theo phân loại quốc tế của bệnh, mã của bệnh này là F22. Trước và trong khi thực hiện hành vi phạm tội, Lê Anh Hùng đã trở lại giai đoạn hạn chế nhận thức và kiểm soát hành vi. Tại thời điểm đánh giá, ông mất khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi“ . Tuy nhiên, xét thấy tình trạng sức khỏe của mình tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, không được coi là không có khả năng chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Lê Anh Hùng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, căn bệnh chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ. Căn cứ Điều 449 Bộ luật Tố tụng hình sự, ngày 04/5/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội quyết định đưa ông vào điều trị.
6. Trường hợp của Phạm Thị Đoan Trang
– Phạm Thị Đoan Trang sinh năm 1978, đăng ký hộ khẩu thường trú tại TP Hà Nội.
– Các cáo buộc rằng Phạm Thị Đoan Trang đã bị sách nhiễu và đe dọa, và đã bị buộc phải trốn vì sợ rằng cô ấy có thể bị bắt tùy tiện, có thể dẫn đến việc giam giữ lâu dài là vô căn cứ. Không có chuyện Công an thành phố Hà Nội buộc bà Phạm Thị Doan Mẹ của Trang ký văn bản xác nhận bà Phạm Thị Doan Trang đã tạo ra, lưu trữ và phân phối tài liệu chống nhà nước để đưa bà ra khỏi nơi ẩn náu như cáo buộc trong Thông tin liên lạc chung. Ngày 3/6/2020, cơ quan chức năng đã gặp bà Bùi Thị Thiên Cần, mẹ của bà Phạm Thị Đoan Trang, để kiểm tra nơi ở của bà Phạm Thị Đoan Trang với mục đích quản lý dân cư. Tại buổi làm việc, bà Bùi Thị Thiên Cần cho biết, từ năm 2018 đến nay, bà Phạm Thị Doan Trang không sống chung với gia đình và bà Bùi Thị Thiên Cần chỉ ký vào biên bản họp.
– Ngày 07/10/2020, Công an thành phố Hà Nội đã thi hành quyết định tạm giữ 5 lệnh bắt tạm giam và lệnh khám xét đối với Phạm Thị Đoan Trang để điều tra về hành vi vi phạm Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc khởi tố, bắt tạm giam Phạm Thị Đoan Trang đã được cấp có thẩm quyền phê chuẩn và được thực hiện trên cơ sở pháp lý hợp lý, tôn trọng pháp luật Việt Nam và được báo chí đại chúng đưa tin công khai.
– Việc bắt giữ Phạm Thị Đoan Trang là để điều tra các hành vi vi phạm pháp luật, lạm dụng mạng xã hội, internet để đăng tải thông tin xuyên tạc sự thật với mục tiêu gây lo lắng dư luận, vu khống, làm tổn hại đến uy tín của cá nhân, tổ chức. Những hành vi này được tiến hành với mục đích lật đổ Nhà nước Việt Nam. Do đó, việc bắt giữ Phạm Thị Đoan Trang để điều tra, làm rõ hành vi phạm tội của bà là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với các công ước về nhân quyền mà Việt Nam là một bên tham gia, trong đó có Điều 19.3 của ICCPR.
7. Hồ Sỹ Quyết
Cơ quan chức năng vẫn đang thu thập thông tin liên quan đến trường hợp của ông Hồ Sỹ Quyết. Việt Nam sẽ trả lời về Hồ Sỹ Quyết ngay khi có thêm thông tin./.
Nguồn: OHCHR