Phương Thảo dịch

(VNTB) – Cuộc chiến đã xảy ra hai lần, một lần ở chiến trận và lần sau là ở trong hồi ức. Bằng cách đó, cuộc chiến tưởng chừng như đã kết thúc ở chiến trường bốn mươi năm trước, lại tiếp tục là một cuộc chiến về hồi ức, lịch sử và sự thật.
Và tiền cá cược cho cuộc chiến này vẫn còn khá cao. Những bài phóng sự trung thực về các sự kiện quan trọng trong quá khứ có thể định hướng định mệnh của chúng ta, giúp chúng ta xem xét liệu chiến tranh vẫn còn kéo dài hay hòa bình đã đến.
Vài năm trước đây tôi rất vui mừng khi được nghe nói rằng Lầu Năm Góc sẽ tài trợ cho ủy ban tưởng niệm chiến tranh Việt nam. Tôi nghĩ cuối cùng thì có lẽ chúng ta đã sửa sai. Nhưng tôi không cần phải đọc gì thêm ngoài vài dòng tóm lược ở đầu trang web để có thể nhận biết được rằng điều này sẽ không xảy ra.
Lời của Tổng Thống Richard Nixon được trích dẫn: “ Không có sự kiện nào trong lịch sử lại bị hiểu nhầm hơn là Cuộc Chiến Việt Nam. Cuộc chiến đã bị tường thuật sai lúc ấy và giờ đây lại bị hiểu nhầm.”
Tôi thuộc đội ngũ phóng viên ít ỏi đi làm phóng sự chiến trường. Chúng tôi tự gọi mình là “những kẻ đánh thuê già nua ” và chúng tôi khá hào hứng với lời trích dẫn trên vì lời dẫn này duy trì sự bí ẩn rằng cuộc chiến ấy đã kết thúc rồi nếu không kể đến các từ ngữ làm nản lòng một số nhà báo.
Tôi đã quấy rầy ủy ban này hàng tháng trời để cho họ phải miễn cưỡng bỏ những dòng trích dẫn đi. Tôi cũng đã đưa kèm theo danh sách các bạn bè ở Trung tâm Lịch Sử Quân đội Mỹ là những người cùng có ý kiến về việc sử dụng câu trích dẫn không hợp lý của ủy ban này. Sau sáu tháng trời nghiến răng, nghiến lợi cuối cùng họ đã gỡ bỏ câu trích dẫn đi. Nhưng nhiều bí ẩn và các lời nói dối về cuộc chiến Việt nam thì vẫn còn tồn tại trên trang web.
Vậy thì cuộc chiến Việt nam sai lầm ở chỗ nào? Một trong những điều bí ẩn thịnh hành và dai dẳng đó là Mỹ đã bị các nhà báo không trung thực phản bội. Thậm chí cả Tư lệnh Quân đội Viễn Chinh Mỹ ở Việt nam, Tướng William Westmoreland cũng tán thành với ý kiến này.
Điều này dường như không có ý nghĩa gì với bao nhiêu lần các sử gia, thậm chí là các sử gia quân đội thách thức điều bí ẩn ấy, điều đáng lưu ý là báo chí Mỹ đã làm rất tốt nhiệm vụ che đậy sự xung đột phức tạp và nguy hiểm này.
Cuộc sống ở Việt Nam
Tôi đặt chân đến Việt Nam vào tháng 5 năm 1965, một phóng viên Canada trẻ hăm hở và mạnh dạn. Tôi cũng giống như hàng trăm những người có thể là các nhà báo chiến trường độc lập đã đi đến tận nơi để thu thập tin tức chiến tranh, đặt chân đến nơi khi mà các xung đột chống chiến tranh du kich đã biến thành một cuộc chiến tranh lớn hết cỡ.
Tuy nhiên tôi không phải mất nhiều thời gian mới có thể biết được sự thật. Vào lúc đó, nước Mỹ đã lợi dụng các nhà báo xuất sắc, những người coi trọng công việc của họ và nhiều người trong số đó đã ra tận chiến trường để tường trình lại các khoảng cách khác biệt giữa quan hệ công chúng sáng ngời và thực tế khắc nghiệt.
Ví dụ, người bạn gần đây của tôi David Halberstam, phóng viên của tạp chí Thời Báo New York kể cho tôi nghe về trận đánh ở đồng bằng sông Cửu long cuối năm 1962 khi mà các xung đột đã trở nên rõ ràng. Hàng trăm máy bay trực thăng của Mỹ đã đến Việt Nam với một viễn cảnh rằng sự vượt trội về kỹ thuật mới sẽ đánh bại Việt Cộng.
Vào ngày đầu tiên của trận đánh, một vài Việt cộng bị bắn chết. Vào ngày thứ hai, một máy bay trực thăng khổng lồ hạ cánh xuống nhưng không có chuyện gì xảy ra. Vào ngày thứ ba, cũng giống y như vậy, không có kẻ thù, không có giao tranh.
Quay trở về Sài Gòn, Neil Sheehan, lúc bấy giờ là phóng viên của UPI ( Thông tấn Xã Mỹ), lầm bầm về việc mất thời gian, Homer Bigart, một phóng viên kỳ cựu trong chiến tranh thế giớ lần 2 cho Thời báo New York hỏi “Có chuyện gì vậy anh Sheehan?”. Sheehan làu bàu kể về ba ngày đầm mình trên các cánh đồng và không có chuyện gì để mà tường thuật.
“Không có chuyện gì,” Bigard hơi ngạc nhiên một chút. “Nhưng đấy là chuyện đấy. Việc này không có hiệu quả. Đấy là câu chuyện của anh đây Sheehan.”
Thật ra thì chiến thuật của Mỹ ở Việt nam đã không có hiệu quả. Chưa bao giờ có hiệu quả. Không hiệu quả vào lúc đấy và không bao giờ cả. Nhưng cái giá của sự điên rồ ấy quá cao. Người Việt phải chịu hi sinh 2 triệu thường dân, nhiều người trong số họ bị thiệt mạng vì các trận bom không kích nặng nề nhất trong lịch sử.
Trong nhiều trường hợp, các binh lính trẻ người Mỹ cũng là nạn nhân khi họ được mang đến Việt nam khi họ được chuẩn bị rất nghèo nàn về sự cứng nhắc và thô bạo của cuộc chiến chống chiến tranh du kích, thường thì họ phải đi hành quân qua các ngôi làng chỉ có toàn phụ nữ và trẻ em. 58 nghìn binh lính Mỹ đã thiệt mạng và nhiều người khác vẫn còn mang theo những vết thương về thể xác và tinh thần.
Nick Turse, tác giả quyển sách “Bắn bất kỳ thứ gì chuyển động”, gần đây có viết: “Thiệt hại của dân ở Việt nam là điều cốt lõi của cuộc chiến do việc sử dụng quyền lực tàn nhẫn của Mỹ gây ra. Tôi đặt ra câu hỏi là liệu nhóm những người quản lý chiến tranh của Henry Kissinger ngày ấy, hay là của Washington gần đây có quan tâm đến điều này hơn là Kissinger hay không.”
Trở về nhà
Tôi mới trở về sau một chuyến đi ba tuần lễ đến Việt nam và Campuchia và tôi phát hiện ra rằng có những người ở Việt nam cũng như ở Mỹ vẫn không muốn nghe những tiếng nói trung thực về cuộc chiến. Tuy nhiên, quay trở lại Việt nam để kỷ niệm 40 năm ngày chiến tranh kết thúc cùng với những kẻ đánh thuê xưa- những ký giả chúng tôi đã từng tường thuật lại cuộc chiến thất bại ấy- lại là một trải nghiệm xúc động và gợi lại nhiều kỷ niệm của những năm chiến tranh.
Trong một cuộc chiến đầy sự kinh ngạc thì không có sự ngạc nhiên nào lớn hơn cuộc tấn công Tết Mậu Thân nhằm vào tòa đại sứ Mỹ vào ngày 31 tháng giêng năm 1968. Các nhà phân tích quân sự cho hay cách để có được sự ngạc nhiên này là làm một điều hoàn toàn ngu ngốc và 15 đặc công Việt cộng thực hiện cuộc tấn công vào đại sứ quán cũng chỉ được huấn luyện sơ sài và thiếu chuẩn bị, nhưng ảnh hưởng của nó lại đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc chiến và chiếm được một mục kỳ lạ trong biên niên sử của lịch sử quân đội.
Tòa đại sứ Mỹ bị tấn công khi xưa giờ đây đã được phá đi và thay thế bằng một tòa lãnh sự Mỹ khiêm tốn. Một phiến đá nhỏ có khắc tên 7 người lính hải quân và quân cảnh Mỹ hi sinh ở đấy được đặt ở trong khu vườn gần với nơi có nhiều người qua lại. Ngay bên ngoài cổng của tòa lãnh sự mà một tượng đài bằng gạch có khắc tên của những đặc công Việt cộng đã hi sinh.
Tôi không thể nào không thử tưởng tượng đến khung cảnh hai người lính đã hi sinh ở hai bên đối diện của bức tường ở tòa đại sứ, Bill Sebast và Nguyễn văn Sáu, quay trở lại nơi đây để chứng kiến sự phát triển kinh đến kinh ngạc của Sài Gòn, cùng với việc Việt nam và Mỹ đã bỏ qua những hận thù cũ để trở thành đối tác kinh doanh đáng kể.
Lần đầu tiên, Bộ Ngoại Giao Việt nam đã đối xử với chúng tôi như những người có giá trị, họ hứng thú với những hiểu biết của chúng tôi về cuộc chiến đẫm máu mà chúng tôi đã từng viết đến. Sự thật là giờ đây Việt nam đã quan tâm nhiều hơn đến người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, và thậm chí còn xem Mỹ là đối trọng với tham vọng của Trung Quốc.
Phán xét những nhà báo
Với ý kiến gần đây của Lầu Năm Góc cho rằng những nhà báo chúng tôi đã “tường thuật không đúng về cuộc chiến” thì sao? Tôi có hài lòng với những bài viết của tôi về cuộc chiến này hay không? Không, tôi không hài lòng. Tôi nghĩ sự thiếu hiểu biết về lịch sử và văn hóa Việt nam ngay từ đầu và sự giới hạn của tin tức truyền hình đôi khi làm cho sự thật phải chịu tổn thất. Một bản tin tường thuật buổi tối chỉ dành được có một phút rưỡi. Thời gian này gần như không đủ để mô tả các sự kiện phức tạp của cuộc chiến Việt nam.
Tôi cũng nhận thấy rằng các nhà biên tập tin của Hãng tin ABC ở New York miễn cưỡng nhận định các điều tiêu cực về chiến tranh. Các phóng sự lại bị biên tập thô bạo hoặc biến mất đầy bí ẩn trước giờ lên sóng.
Việc kiểm duyệt duy nhất mà tôi trải qua là ở ngay chính hãng tin của tôi. Ở ngay tại tòa đại sứ khi người đặc công Việt Cộng cuối cùng bị hạ sát, tôi đã nhanh chóng quay phim lại. Để kết thúc bản tin tường thuật, tôi nói, “Kể từ Tết Nguyên Đán, Việt Cộng Bắc Việt đã chứng tỏ rằng họ có đủ khả năng tiến hành các cuộc tấn công quân sự táo bạo và ấn tượng mà người Mỹ chỉ có mơ mới đạt được. Liệu họ có thể giữ được sự tấn công dữ dội này lâu dài hay không thì còn phải chờ xem sao.”
“Nhưng bất cứ bước ngoặt nào mà cuộc chiến này đạt được thì việc chiếm giữ tòa đại sứ trong bảy giờ liền là một chiến thắng tâm lý đã trấn tĩnh lại và gây cảm hứng cho Việt Cộng. Don North Tin Tức ABC Sài Gòn.”
Nhưng phân tích tức thời của tôi đã không được phát sóng. Tôi bị buộc phải biên tập lại và bản tin tường thuật ấy đã bị nhà sản xuất bản tin tối bóp chết. Tuy nhiên, mỉa mai thay bản tin này lại được lưu trữ trong “Thư Viện ABC Simon Grinberg” nơi mà sau này nhà sản xuất Peter Davis đã phát hiện ra và sử dụng vào bộ phim đạt Giải Thưởng Hàn lâm của ông, “Trái tim và khối óc.”
Vì vậy đúng là sự thật về chiến tranh Việt nam thường rất đau đớn, nhưng không phải theo cách mà Nixon đã phát biểu. Nhiều cơ quan truyền thông Mỹ đã đặt cuộc chiến này trong vầng sáng quá lạc quan mà không quá gay gắt. Nghề báo tử tế hơn thì có lẽ đã liên tục thách thức điều mà Neil Sheehan sau này gọi là “Một lời nói dối sáng chói,” dấu lặng cho quan hệ công chúng về một cuộc chiến lạc lối.
Và bài học mà Việt nam vốn được thảo luận không đi được đến đích trong nửa thế kỷ qua mà những gì Washington học được từ đó lại quá nhỏ bé đến nỗi những kẻ hiếu chiến ngày nay lại lặp lại các lỗi lầm của chiến tranh Việt nam ở Afghanistan và Iraq – cũng cùng là sự ngạo mạn, sự phụ thuộc quá độ vào kỹ nghệ và tuyên truyền, và cùng sự thiếu hiểu biết về các nền văn hóa ngoại bang phức tạp.
Vậy những bài học thật thụ nào mà giới báo chí đã học được qua cuộc chiến Việt nam? Dù có những khó khăn về kiểm duyệt và sự mơ hồ về chiến tranh, tôi tin tưởng phần lớn các bản tin về cuộc chiến này là chính xác và đã chống chọi lại được sự phán xét của thời gian. Tuy nhiên liệu các bản tin về chiến tranh ngày nay đã phát triển hơn các chính sách đối ngoại của Mỹ?
Mark Twain đã từng viết về những gì tôi cho là điều tiến thoái lưỡng nan của thời đại chúng ta. Ông ta nói rằng “Nếu bạn không đọc báo thì bạn không nắm được tin tức. Nếu bạn đọc báo thì bạn đã nắm được thông tin không chính xác.” Nhà báo kỳ cựu A.J. Liebling của tờ Baltimore Sun cũng đã khám phá ra rằng, “Báo chí là thanh giát yếu của cái giường ngủ dân chủ.”
Gần đây Bill Moyers cũng đã mượn câu nói này của Liebling khi ông viết: “Sau khi xâm chiếm Iraq, cái giát giường đã gãy và một vài thứ lạ lùng ở trên giường đã rơi xuống đất… việc tổ chức các nhà báo, các nhà bút chiến tân bảo thủ, các học giả vành đai xa lộ, những kẻ hiếu chiến cánh tả tung ra các đầu lâu và xương sọ của ‘lực lượng quân bình và công bằng.’ Và hỏa lực phòng không của chính phủ đã phân loại các tin tức rò rỉ như là những lời nói dối được sắp đặt… tất cả đều đang nhún nhảy trên tấm nệm trong màn dạo đầu của một hiểm họa. Hàng nghìn tổn thất và hàng tỷ đô la sau đó vẫn đượchoanh nghênh, hầu hết các kẻ truyền thông đồng mưu dù bị bắt quả tang vẫn nổi bật, và vẫn cứ duy trì không gì hơn ngoài sự nuối tiếc như một chuyên viên dự báo thời tiết đã dự đoán sai nhiệt độ của ngày hôm sau.”
Và cũng cùng một loại “ tư duy tập thể” và thái độ thù nghịch để chống lại việc chứng tỏ rằng thảm họa đấy ở Việt nam nửa thế kỷ trước đây và ở Iraq một thập kỷ qua lại lần nữa tăng cao ở Washington ngày nay.
Tờ Thời báo New York và Bưu Điện Washington được giao tận nhà tôi mỗi ngày và tôi sợ hãi khi đọc làm thế nào mà “ý thức hệ tân bảo thủ” dường như đã nắm lấy quyền kiểm soát của các trang biên tập, một sự phát triển mà bất cứ người Mỹ nào cũng phải quan tâm. Quyền lực không thể chối cãi của quân đội đã được đưa lên hàng đầu chứ không phải là cứu cánh cuối cùng.
Các đề nghị về việc xem xét các xung đột của phía đối lập đã bị bỏ qua bởi những kẻ khờ khạo và không phải là người Mỹ. Thay vào đó, nói về những vấn đề khó khăn hay là việc vẫy cờ lại dễ dàng hơn nhiều, trong khi lại phung phí tiền thuế của quốc gia vào khí tài quân sự và các cuộc mạo hiểm quân sự, ngay cả khi mà hàng triệu gia đình người dân Mỹ đang sống dưới mức nghèo khổ.
Ở West Point tháng năm rồi, Tổng Thống Obama đã phát hiện ra được rằng: “ Một trong số các lỗi lầm đắt giá nhất không phải do sự kềm chế của chúng ta, mà là từ ước muốn được tham gia vào các cuộc mạo hiểm quân sự mà không buồn nghĩ đến hậu quả. Chỉ bởi vì chúng ta có cái búa tốt nhất thì không có nghĩa là mọi vấn đề chỉ là một cái đinh.”
Nguồn: https://consortiumnews.com/2015/05/05/the-war-over-the-vietnam-war/