Thiên Điểu (VNTB) Một kịch bản cho lựa chọn khác có thể xảy ra là ĐCSVN thay đổi tên trước khi thay đổi từng phần quan điểm chính trị – một giải pháp đã từng được áp dụng trước đây khi đổi từ ĐCS thành Đảng lao động dưới thời lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh.
Hội nghị 14 kết thúc, danh sách các nhân sự chủ chốt trên nguyên tắc là đã được quyết định. Mọi thay đổi về các vị trí cao nhất trong bộ máy chính quyền Việt Nam từ 2016 sẽ không còn thay đổi nào đáng kể.
Dư luận ngoài lề vẫn đang trong vùng xoáy bởi các đồn đoán theo kiểu thuyết âm mưu hoặc suy diễn theo cảm tính cá nhân xoay quanh khuynh hướng ủng hộ và vị trí của hai nhân vật chủ chốt là đương kim Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Bản chất của vấn đề là gì?
Nhìn lại những sóng gió trên chính trường trong 2-3 nhiệm kỳ về trước có thể thấy xã hội Việt Nam đang thực sự bước vào góc ngoặt chưa từng có trong suốt hơn 70 năm được dẫn dắt bởi Đảng CSVN. Đặc biệt trong hai nhiệm kỳ gần nhất là Khóa X và Khóa XI vừa qua, những thay đổi cả về đường lối lẫn chính sách kinh tế đã như cơn bão đưa Việt Nam vào những xáo trộn dữ dội khiến mọi tư duy về chính trị lẫn quan điểm nhìn nhận về cấu trúc tổ chức nhà nước thay đổi rất nhiều. Mô hình tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa trên nền chính trị chủ nghĩa cộng sản bộc lộ những sai lầm khủng khiếp khi bước vào sân chơi kinh tế thị trường kiểu tư bản. Thực sự đe dọa cả vai trò lẫn tính chính danh của Đảng CSVN trên vai trò nắm giữ quyền lực tối cao.
Được dẫn dắt bởi phong cách điều hành mang nhiều màu sắc ngẫu hứng từ Chính phủ do ông Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu. Các chính sách về kinh tế, xã hội luôn trong trạng thái điều chỉnh, thay đổi chứ không có bất cứ đường nét chiến lược nào thể hiện được tính ổn định thật sự. Kinh tế thị trường tuy còn nửa vời đã có những thay đổi lên bộ mặt xã hội có vẻ phát triển, nhưng xét kỹ chỉ là giả tạo, không có thực chất. Điều này phản ánh rất rõ nếu phân tích, so sánh giữa giá trị đầu tư công với khoản nợ vay khổng lồ mà Việt Nam đang có.
Vấn nạn tham nhũng, lợi ích nhóm xé nát mọi nỗ lực duy trì đoàn kết mà các lãnh đạo chóp bu trong Bộ chính trị của TW Đảng muốn có. Điều nguy hiểm lớn nhất trong nội bộ Đảng CSVN là tình trạng cát cứ quyền lực theo cấu trúc dọc chứ không phải là kiểu cát cứ quyền lực theo lãnh địa ngang như kiểu sứ quân thời phong kiến. Sự rạn nứt, phân chia này thấy rất rõ qua hàng loạt các chính sách, văn bản qui phạm pháp luật có tầm ảnh hưởng quốc gia bị lách luật hoặc vi hiến mà khởi đầu của nó có thể nhận thấy rất rõ là việc “lách luật” trong các đề án phát triển kinh tế của Chính phủ. Trong đó Dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên là ví dụ điển hình rõ nhất khi được chia nhỏ để không trình Quốc hội như qui định của Nghị quyết 49/2010/QH12.
Tiếp theo đó là hàng loạt các văn bản dưới luật của các Bộ, ngành.. nhưng hoặc là đè lên luật hoặc là ngang luật nhưng không hề dựa trên nguyên tắc ban hành luật cơ bản nhất. Dẫn tới những xáo trộn và phản ứng gay gắt trong đời sống của mọi thành phần xã hội. Việc áp dụng luật, áp dụng chính sách tùy tiện ở các cấp địa phương bị thao túng, rơi vào tùy tiện, bất bình đẳng.. tạo nên các mâu thuẫn giữa người dân với thể chế cầm quyền tiếp tục tạo thêm áp lực nặng nề cho Đảng CSVN.
Nhận thức được các nguy hiểm đang hình thành, TW Đảng CSVN từng cố gắng mở chiến dịch chống tham nhũng nhằm triệt tiêu đầu mối được cho là căn nguyên lớn nhất nhưng thất bại. Vô tình tạo thêm tâm lý chán nản, mất niềm tin vào năng lực lãnh đạo của Đảng từ người dân. Những diễn biến quyết liệt liên quan lựa chọn nhân sự khóa XII vừa qua cho thấy vừa là cơ hội, vừa là nỗ lực cuối cùng mà TW Đảng và cụ thể là cá nhân ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể vận dụng bộ máy quyền lực nhằm tìm giải pháp cứu vãn tình thế cho sự tồn vong của Đảng. Tuy nhiên:
Nếu đổ lỗi tham nhũng xuất phát từ năng lực yếu kém của Chính phủ mà qui trách nhiệm cho cá nhân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì lại cho thấy đó là cái nhìn còn hời hợt nếu không nói là sai về cơ bản. TW Đảng CSVN thừa hiểu cấu trúc tổ chức nhà nước Việt Nam không thể dẫn tới cách qui kết trách nhiệm cá nhân cho bất cứ ai. Dư luận của một bộ phận nhất định thể hiện ủng hộ ông Dũng – tạm thời không nói đến quan điểm chính trị và tâm lý không chấp nhận danh nghĩa cộng sản bất cứ lý do gì – thì hầu hết đều không phải là không biết năng lực của đương kim Thủ tướng, cũng không phải là không thấy những lỗ hổng trong phương cách lãnh đạo của ông mà xuất phát từ nhận thức “dù sao cũng còn có chút cơ hội hưởng lợi” trong cách quản lý ngẫu hứng, không đầu không cuối của ông. Nó tạo ra kỳ vọng rằng ông Dũng sẽ có những cải cách mạnh mẽ hơn sau những thất bại mà ông đã trải qua hai nhiệm kỳ Thủ tướng. Từ đó định hình nên quan điểm “chọn cái ít xấu nhất trong những cái xấu” đang lan truyền trong dư luận hiện nay. Cơ sở để quan điểm ủng hộ ông Dũng được chứng minh bằng cách thức rất đơn giản là so sánh với các phát ngôn vụng về mà cá nhân ông Nguyễn Phú Trọng đã bị vấp trong nhiệm kỳ của mình.
Khi nhìn nhận vấn đề như vậy, sẽ rất dễ dàng để nhìn thấy một sự thật quan trọng: Đảng CSVN đã đánh mất vai trò lãnh đạo ngay trong bộ máy tổ chức nhà nước do buông lỏng hoặc không đủ năng lực kiểm soát ngay trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO – thời điểm được cho là chính thức bước vào chuyển hướng sang kinh tế thị trường, yếu tố cơ bản nhất tạo ra những xáo trộn và xung đột trong xã hội Việt Nam thời gian qua. Nó giải thích lý do tại sao ĐCSVN lại phải lao tâm khổ tứ để ra cho được “định nghĩa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ngay trước khi bắt đầu các kỳ Đại hội chuẩn bị cho bầu cử TW khóa XII. Nói cách khác: Có vẻ như ĐCSVN vẫn đang nhìn nhận nền kinh tế thị trường kiểu tư bản là “kẻ thù” chính, nguyên nhân của mọi vấn đề.
Các kịch bản tiếp theo của “Hậu đại hội 12” và nhiệm kỳ khóa XII sẽ thế nào ?
Có khá nhiều dự đoán cho rằng sẽ không có gì thay đổi đáng kể trong chính sách. Nhưng đối với Việt Nam, chính sách thay đổi hay không tùy thuộc khá nhiều vào các cách thức lãnh đạo của cá nhân trong mô hình dân chủ tập trung của ĐCS. Nó không cho phép một nhận định nào có tính chắc chắn tuyệt đối nhưng cho phép những nhận định chính xác hơn nếu hiểu rõ những mâu thuẫn lẫn tác động bởi hình thức lãnh đạo này. Chứng minh gần nhất, dễ thấy nhất chính là vai trò của ông Nguyễn Tấn Dũng – vị Thủ tướng được cho là quyền lực nhất (trong chế độ cộng sản) từ trước tới nay – và ngay cả vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng qua Nghị quyết 244 liên quan Đại hội Đảng và nhiệm kỳ Khóa X-XI vừa qua.
Các dự đoán về diễn biến có thể không có cơ sở đứng vững nhưng các kịch bản định hướng để lựa chọn dựa trên những yêu cầu mang tính bắt buộc không có nhiều để ĐCSVN lựa chọn.
Một kịch bản được nhiều người chú ý và quan tâm nhất có liên quan phát biểu mới đây của ông Nguyễn Xuân Phúc – một trong những người được đồn đoán trong dư luận là có khả năng lên làm Thủ tướng thay ông Dũng – nhắc lại yếu tố tham nhũng. Tuy vẫn chỉ là nhắc lại những thông điệp mà ông Nguyễn Phú Trọng và nhiều lãnh đạo khác đã từng nói, nhưng xuất phát từ người một người gần như chưa từng nói tới và lại cũng dính không ít dư luận nghi vấn có tham nhũng cho thấy ít nhiều cơ sở để khẳng định: TW ĐCSVN vẫn sẽ lấy lá bài “chống tham nhũng” làm ngọn cơ để giữ sự ổn định, đồng thời duy trì vị trí lãnh đạo trong bộ máy quyền lực. Dù muốn hay không, khuynh hướng gia tăng hoạt động chống tham nhũng trong nhiệm kỳ mới sẽ là ưu tiên số một của ĐCSVN. Thậm chí khả năng một kịch bản chống tham nhũng theo phương cách của Tập Cận Bình ở Trung Quốc sẽ được áp dụng bất chấp cả khả năng thành công không cao khi bộ máy bên dưới gần như bị vô hiệu hóa bởi lợi ích.
Nếu trận chiến chống tham nhũng sau Đại hội 12 không được triển khai hoặc triển khai nhưng thất bại thì đồng nghĩa ĐCSVN không còn cơ hội nắm giữ vai trò lãnh đạo trên chính trường Việt Nam vì đây là lá bài tẩy duy nhất có thể có lợi mà ĐCS có thể nắm giữ. Những hệ lụy do hậu quả tham nhũng, lợi ích nhóm và mâu thuẫn xã hội đã hình thành sẽ triệt tiêu mọi nỗ lực chiếm giữ quyền lực lãnh đạo nếu không chấp nhận một cuộc “thay máu” đầy khắc nghiệt. Các xung đột xảy ra trong cuộc chiến này chính là động lực hình thành những thay đổi trong chính sách của dàn lãnh đạo Khóa XII.
Một kịch bản cho lựa chọn khác có thể xảy ra là ĐCSVN thay đổi tên trước khi thay đổi từng phần quan điểm chính trị – một giải pháp đã từng được áp dụng trước đây khi đổi từ ĐCS thành Đảng lao động dưới thời lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh. Kịch bản này cho phép ĐCSVN có thời gian để kìm giữ sự gia tăng mâu thuẫn từ người dân, củng cố lại sức mạnh nhưng gắn liền với điều kiện tiên quyết là phải chấp nhận (dù hạn chế ) yếu tố đa nguyên và tạm thời chấp nhận giảm bớt sự kiểm soát ngoại vị qua các chính sách nới rộng quyền tự do báo chí, mở đường cho quyền lập hội, tổ chức công đoàn độc lập.v.v.
Kịch bản này đòi hỏi ĐCSVN phải có lòng tin đủ lớn vào nhóm lãnh đạo kế thừa, lãnh đạo trẻ, gương mặt mới.. là các tiêu chuẩn cơ bản để xóa bớt đi những dấu ấn về sự trì trệ, bảo thủ của các nhiệm kỳ trước.
Nhận định “không có thay đổi đáng kể” là hợp lý và vẫn đúng vì đây chính là đặc thù của chính trị Việt Nam. Mặt khác, nó gần như đương nhiên khi mà ĐCSVN vẫn chưa hoàn thiện được khả năng kiểm soát, xây dựng một hệ thống luật rõ ràng và đang còn loay hoay với khái niệm liên quan XHCN. Việc hiện thực hóa “định nghĩa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” mà Đảng CSVN không có tác dụng gì đáng kể nếu không nói là chỉ gây thêm tệ hại cho Đảng khi ngay bản thân nó đã bộc lộ bế tắc và mâu thuẫn chưa có lời giải đáp.
* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả