Anh Khoa dịch
(VNTB) – Tình trạng hạn hán trầm trọng hơn, khiến sản lượng cá và gạo sụt giảm
Qua nhiều thế hệ, người nông dân làm lúa trên những cánh đồng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long màu mỡ sống nhờ vào nguồn cá dồi dào và canh tác lúa.
Với hàng triệu người, nhịp sống cũng là dòng chảy không ngừng của dòng sông. Những người sống bên sông Cửu Long và các nhánh sông trong vùng đã nhận biết “nền văn minh sông nước” của họ là của cải thiên nhiên cần được bảo tồn và duy trì cho các thế hệ mai sau.
Nhưng các chuyên gia và nông dân biết rằng mạng lưới sông ngòi chằng chịt đang bị đe dọa nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm công nghiệp và tác động tiêu cực của các đập thủy điện ở thượng nguồn.
Trên toàn bộ vùng hạ lưu Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhiệt độ gia tăng và cường độ mưa thay đổi, dòng chảy của sông, lũ lụt và hạn hán đang phá hủy mùa màng, nghề cá và nhà cửa. Từng được ca ngợi là kho báu đa dạng sinh học và là nồi cơm của Việt Nam, thì bây giờ mỗi ngày lại càng có thêm nhiều vùng đang trải qua những đợt hạn hán tàn khốc trong lịch sử và đối mặt với những thách thức thực sự về an ninh lương thực.
Sông Mekong bắt nguồn từ trên Cao nguyên Tây Tạng và chảy qua gần 4.200 km trước khi chia thành chín nhánh (“ Cửu Long – Con Rồng Chín Đuôi”) và đổ ra Biển Đông. Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, gần 2 triệu người thuộc sáu tỉnh ven biển đang chịu cảnh khan hiếm nước ngọt.
Mực nước thấp kỷ lục ở phần lớn các tuyến đường thủy và sông ngòi đang gây ra tình trạng nhiễm mặn sâu vào đất liền, lên đến 90 km từ cửa sông, quét sạch mùa màng và làm ô nhiễm nguồn cung cấp nước. Với nhiều nông dân trồng lúa, không còn nghe tiếng than “nhiều nước quá” nữa; và bây giờ thường nghe hơn là lời than “hạn quá.”
Các nhà nghiên cứu nông nghiệp cảnh báo rằng: trừ khi các biện pháp khẩn cấp được thực hiện, toàn bộ Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi sinh sống của hơn 20 triệu người, có thể hầu như nằm dưới mực nước trong vòng một thế hệ.
Rafael Schmitt, nhà khoa học kỳ cựu trong Dự án Nguồn Vốn Tự Nhiên (Natural Capital Project) của Đại học Stanford cho biết: “Nếu không có hành động nhanh chóng, vùng châu thổ và sinh kế của vùng sông Cửu Long có thể trở thành nạn nhân của thay đổi môi trường trên toàn cầu và trong khu vực.”
Đồng Bằng Sông Cửu Long cực kỳ dễ bị tổn thương bởi các hiểm họa khí hậu. Trong khi biến đổi khí hậu đặt ra các mối đe dọa hiện hữu đối với các hệ sinh thái mong manh ở vùng bình nguyên, các nghiên cứu dự đoán là nhiệt độ trong không khí và trong nước biển sẽ tăng lên.
Theo Bộ Nông nghiệp Việt Nam, vùng đồng bằng đang mất khoảng 500 ha đất mỗi năm do xói mòn. Ngoài ra, các phương thức quản lý đất và nước không bền vững đang gây ô nhiễm sông ngòi và kênh rạch. Mức độ nhiễm mặn đã tăng đến 4g/lít ở nhiều nơi, gấp bốn lần mức cho phép đối với hầu hết các loại cây trồng.
Xét lại bát cơm
Khi bắt đầu chương trình “Đổi Mới” vào năm 1986, lãnh đạo Việt Nam đã đưa ra các kế hoạch cấp quốc gia để thoát khỏi đói nghèo và những khó khăn do cuộc chiến Việt Nam kéo dài. Một phần trọng tâm của chiến lược mới đó là mở ra ngành trồng lúa không chỉ để tự cung cấp cho cả nước mà còn làm Việt Nam trở thành một quốc gia xuất khẩu gạo có tầm vóc. Gạo rất quan trọng vì đây là thực phẩm chủ yếu của một nửa dân số thế giới.
Giờ đây, các nhà khoa học đã đưa ra bằng chứng cho thấy người Việt Nam có lẽ đang phải đối mặt với thách thức lớn nhất: biến đổi khí hậu, những cơn bão dữ dội, nạn hạn hán và mất an ninh lương thực.
Nguyễn Minh Quang, đồng sáng lập Diễn đàn Môi trường Mekong
phỏng vấn nông dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ảnh: MEF
Tại đồng bằng sông Cửu Long, nơi có hơn một phần ba số hộ có diện tích đất trồng lúa dưới nửa mẫu, chính phủ đã khuyến khích mô hình “ruộng nhỏ, cánh đồng mẫu lớn” do các doanh nghiệp hoặc tập đoàn nông nghiệp lớn như Tập đoàn Sản Xuất Nông Nghiệp Lộc Trời (Loc Troi Agricultural – LTA). Hiện nay, nông dân canh tác theo hợp đồng gần 10% diện tích lúa ở một số tỉnh.
Đối với nhiều nông dân, mô hình mới này cung cấp một mạng lưới an toàn bền vững. Hệ thống của Lộc Trời bao gồm hơn 40.000 hộ nông dân nhỏ lẻ và hệ thống này cho phép công ty giám sát từ hạt giống đến thu hoạch và vận chuyển với gồm 24 nhà máy ở khắp vùng đồng bằng để sấy, xay xát, bảo quản và giao hàng.
Với công suất phơi sấy hàng ngày đạt gần 26.000 tấn, xay xát hơn 22.000 tấn và kho chứa 1 triệu tấn gạo, LTA có thể đáp ứng khối lượng lớn các đơn đặt hàng quốc tế ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Úc, và với phương cách này có thể coi đó là cách hướng dẫn cho nông dân áp dụng các cách thức sản xuất lúa theo kiểu mới mà không lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu.
Báo cáo chuyển đổi mô hình phát triển và quy hoạch tích hợp do chính phủ công bố gần đây tập trung vào thay đổi mô hình nông nghiệp và đánh giá tác động của Kế hoạch Tổng hợp Đồng Bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2021-2030.
Các nhà hoạch định chính sách của Hà Nội hiểu quá rõ những thách thức nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, suy giảm kinh tế, thiếu lao động và nguồn nguyên liệu không đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu.
Báo cáo cũng nêu chi tiết về sự cấp thiết phải đầu tư vào đồng bằng, với hợp tác quốc tế và các mối quan hệ đối tác nhằm giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Giáo sư Vũ Thành Anh, cựu khoa trưởng Đại học Fulbright Việt Nam và hiện là giảng viên cao cấp kiêm trưởng nhóm báo cáo nghiên cứu, cho biết đại dịch Covid-19 có tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế trong nước nhưng Đồng Bằng Sông Cửu Long là một điểm sáng, khi lĩnh vực nông nghiệp tăng 3,4%.
Chính quyền trung ương đã chuyển sang có những hành động quyết liệt sau khi Đồng Bằng Sông Cửu Long chịu thiệt hại lớn do hạn hán nghiêm trọng kết hợp với mực nước biển dâng cao vào cuối năm 2015 và 2016. Đến năm 2017, Nghị quyết 120 đã nhấn mạnh vào việc phát triển bền vững và thích ứng với khí hậu. trong khu vực.
Chính sách quốc gia đã thúc đẩy các hợp tác xã nông nghiệp phát triển bền vững và tạo điều kiện cho nông dân chú tâm vào việc trồng cây ăn trái, vì những thửa ruộng trồng lúa kém hiệu quả có thể dễ dàng chuyển đổi sang trồng những loại rau trái chịu hạn, mặn.
Ngoài ra, trong thập niên vừa qua, khu vực này đã chứng kiến sự di dời đều đặn của cư dân từ nông thôn đi tìm việc ở các khu vực đô thị, đặc biệt là ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các tỉnh đồng bằng có mức giảm dân số lớn nhất vào năm 2020 là Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang và Cà Mau.
Theo một bài báo được đăng trên Earth Journalism Network, nhiều khu vực trồng lúa kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang trồng các loại cây chịu mặn và chịu hạn như thanh long, dừa, sen, cau và dưa hấu.
Nhà sinh thái học Đồng Bằng Sông Cửu Long Nguyễn Hữu Thiện cho biết: “Biến đổi khí hậu sẽ là tác động môi trường đáng kể nhất trong tương lai. Lũ và ngập lụt ngày càng thường xuyên hơn; và cường độ tăng theo sau mực nước biển dâng cao, bão nhiệt đới cũng sẽ gia tăng ”.
Các mối đe dọa từ thủy điện đối với vùng đồng bằng
Sông Mekong chảy qua 5 quốc gia là Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan và Campuchia trước khi đổ vào Việt Nam. Tất cả các quốc gia này đều coi thủy điện là yếu tố quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế.
Vào năm 2021, thượng nguồn sông Mekong có 141 đập đang hoạt động. Ngoài ra, còn có 36 đập nữa đang được xây dựng. Đến năm 2032, sẽ có tổng cộng 468 nhà máy thủy điện trên sông Mekong và các phụ lưu của dòng sông này. Mặc dù hầu hết các nhà máy này không nằm ở Việt Nam, nhưng chúng đang ảnh hưởng xấu đến điều kiện sống của hơn 20 triệu người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Dữ liệu cho thấy một bức tranh tồi tệ về tác động của các đập thuỷ điện và hệ sinh thái ở hạ lưu cùng với việc suy giảm có hệ thống trong ngành đánh bắt cá và sản xuất lúa gạo. Sụt giảm tổng thể trong việc canh tác lúa có liên quan trực tiếp đến việc không có nước lũ trước đây đã thúc đẩy lúa nổi phát triển, đây là loại cây trồng đặc trưng của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Cán cân giữa sông và biển đang chuyển dịch mạnh mẽ. Hạn hán trước đây cũng như hiện nay ở đồng bằng đã tàn phá nguồn cung cấp lương thực và gia tăng những tranh luận gay gắt về địa chính trị “theo dòng chảy của sông” ở thượng nguồn của Trung Quốc. Các đập thuỷ điện không chỉ ngăn dòng nước lũ mà còn ngăn dòng phù sa nuôi dưỡng đất và cung cấp thức ăn cho cá ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam .
Xin được nói rõ ra đây, tôi là đồng sáng lập viên của Diễn đàn Môi trường Mekong (Mekong Environment Forum – MEF), một tổ chức phi chính phủ có trụ sở đặt tại Cần Thơ, Việt Nam. Các chương trình tiếp cận cộng đồng của chúng tôi và các hội thảo theo chiều hướng khoa học cho dân nhắm vào vô số vấn đề về môi trường.
Trong một hội nghị trước đây, do MEF phối hợp, các diễn giả Philip Minderhoud và Sepehr Eslami Arab của Đại học Utrecht, thành viên nghiên cứu của Dự án “Rise and Fall”, đã trình bày những phát hiện của họ sau sáu năm nghiên cứu, cho thấy rằng sự xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long là dưới 5% do biến đổi khí hậu, nhưng chủ yếu là do phát triển thủy điện.
Theo hai nhà nghiên cứu, nguồn cung cấp phù sa đã giảm gần 90% do đập thuỷ điện ở thượng nguồn. Các nghiên cứu của họ và những người khác nhấn mạnh rằng sự phát triển cơ sở hạ tầng thủy điện ở thượng nguồn có tác động đến các đặc tính của dòng chảy, phù sa và chất dinh dưỡng, mức ổn định của lòng và bờ sông, năng suất cá, đa dạng sinh học và sinh học của lưu vực.
Dòng chảy phù sa phủ xuống lòng và bờ sông đang bị suy giảm ngày càng nhanh chóng, vượt xa các biến chuyển của khí hậu. Khi đập nước điều tiết dòng chảy của sông Mekong và tiêu diệt mạch lũ, Biển Hồ (Tonlé Sap) không còn là một hồ chứa giảm lũ, và do đó không cung cấp được lượng nước cần thiết cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Đồng thời, những kênh đào sâu hơn của vùng bình nguyên khiến cho việc xâm nhập mặn ngày càng tăng do mực nước biển dâng, cộng thêm mực thủy triều lên xuống. Triều cường tràn ngược lên Hậu Giang, tràn qua đê điều và có thể nhấn chìm trung tâm thành phố Cần Thơ. Hệ thống điều hòa nước dẫn vào vùng đồng bằng do thiên nhiên tạo dựng để ngừa lũ lụt đang nhanh chóng bị thay đổi.
Vùng đồng ruộng ngập nước giữ vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái nông nghiệp và kinh tế-xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long, vì chúng cung cấp khả năng ngăn giữ lũ tự nhiên và giảm đỉnh lưu lượng nước sông trong mùa lũ.
Các nhà thủy văn học đồng ý rằng các hoạt động của những đập thuỷ điện ảnh hưởng đến sông ngòi vì chúng phân phối lại dòng chảy và thay đổi theo thời gian. Trong khi chưa có bằng chứng về sự khác biệt giữa thay đổi dòng chảy do đập nước và thay đổi dòng chảy do khí hậu, thì Biển Hồ Tonlé Sap hiện đang rơi vào tình trạng nghiêm trọng vì đập nước ở thượng nguồn phía Trung Quốc.
Những năm xây dựng đập và hạn hán gia tăng do biến đổi khí hậu đã không chỉ thay đổi một trong những ngành thủy sản nước ngọt giàu nhất thế giới mà còn tác động đến những người sống ở vùng hạ lưu trong châu thổ sông Cửu Long.
Brian Eyler, giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Stimson và là tác giả của Những Ngày Cuối Cùng của Sông Mekong Hùng Vĩ (Last Day of the Mighty Mekong), thông qua dữ liệu do vệ tinh cung cấp, đã cho thấy lượng nước kỷ lục mà Trung Quốc tích tụ đã dẫn đến hạn hán nghiêm trọng hơn nhiều cho các nước nằm trong vùng hạ lưu.
Eyler chú mục vào một nghiên cứu do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ do Eyes on Earth xuất bản, trong đó có nhấn mạnh rằng với chứng từ mực nước sông do Ủy ban Sông Mekong đo và thăm dò từ xa xác nhận nạn hạn hán đang diễn ra là hậu quả từ chính sách quản lý nước của Trung Quốc.
Dữ liệu tiết lộ rằng từ năm 1992 đến năm 2019, việc đo đạc “độ ẩm bề mặt” ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bằng vệ tinh cho thấy khu vực này thực sự có lượng mưa kết hợp trên mức trung bình một chút và tuyết tan từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2019.
Eyler nói: “Khi hạn hán xảy ra, Trung Quốc kiểm soát dòng chảy của con sông một cách hiệu quả.
Tất cả các dữ liệu gần đây vẽ ra một bức tranh đáng sợ về việc Trung Quốc hạn chế dòng nước từ thượng nguồn sông Mekong. Nghiên cứu khoa học khẳng định rằng Trung Quốc có thể đã làm nhiều thứ để giảm hạn hán và duy trì mực nước sông trên mức trung bình.
Nghiên cứu của Stimson cho thấy một mô hình có hệ thống về “chính sách tháo cạn dòng sông” của Bắc Kinh, dịch đơn giản là: Nước không bao giờ được chia sẻ nếu Trung Quốc không sử dụng trước hoặc trừ phi là có ai đó ở vùng hạ lưu trả tiền. Hành động này được cho là nguyên nhân dẫn đến việc Trung Quốc không ký kết bất kỳ hiệp ước quốc tế nào về các con sông xuyên biên giới của mình.
Trong một cuộc tranh cãi về địa chính trị, chính phủ Trung Quốc tin rằng nước sông Mekong là tài nguyên có chủ quyền hơn là tài nguyên chung, điều này đã đặt các chính phủ hạ nguồn vào vị thế cần phải có được đảm bảo quyền tiếp cận tự do với các nguồn nước quốc tế, bảo tồn đa dạng sinh học và an ninh lương thực gặp rủi ro. Chương trình ngoại giao về nước của Bắc Kinh còn thiếu sót, vì đập thuỷ điện của họ làm suy yếu dòng chảy của sông và cho phép nước biển xâm nhập sâu hơn vào thượng nguồn.
Trong ba thập niên, Trung Quốc đã xây dựng đập nước ở thượng nguồn sông Mekong, khiến các nước hạ nguồn lo ngại rằng một ngày nào đó Trung Quốc có thể tắt vòi nước. Vào năm 2020, một đợt hạn hán kỷ lục đã quét sạch mùa màng và dẫn đến một cuộc khủng hoảng cần đến sự trợ giúp nhân đạo ở các vùng hạ lưu.
Lãnh đạo Trung Quốc đã tái khẳng định rằng Trung Quốc đã vượt qua những khó khăn riêng và tăng lượng nước chảy ra từ sông Lan Thương (con sông đầu nguồn sông Mekong) để giúp các quốc gia dọc theo sông Mekong giảm nhẹ hạn hán, đồng thời cho rằng Trung Quốc và các nước láng giềng phải tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau tiến lên.
Tuy nhiên, đối với nhiều nước láng giềng ở vùng hạ lưu, hành vi của Trung Quốc tiếp tục làm tình trạng hạn hán trầm trọng hơn, khiến sản lượng đánh bắt cá và sản lượng gạo sụt giảm, cho thấy khoảng cách lớn giữa hành động và lời nói của Bắc Kinh.
Nguồn: Vietnam’s broken rice bowl. James Borton. AsiaTime, 26.08.2022
https://asiatimes.com/2022/08/vietnams-broken-rice-bowl/