Việt Nam Thời Báo

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần 12)

Văn Nguyên Dưỡng 

 

[ads_custom_box title=”Lời toà soạn” color_border=”#050ce8″]

Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng hiện sống tại Hawaii, nguyên trưởng phòng 2 ( Phòng Tình Báo) bộ tư lệnh sư đoàn 5 BB. Người tham dự trận chiến An Lộc từ bắt đầu đến kết thúc. Trong bài viết của ông dưới dây có thể có một vài chi tiết khá nhạy cảm với một vài người.

[/ads_custom_box]

 

CÁC CHỐT CHẶN CA SĐCT-7/CSBV TRÊN QL-13, PHÍA BẮC LAI KHÊ VÀ PHÍA NAM AN LỘC. CUỘC ĐẤU TRÍ GAY GO GIỮA HAI TƯỚNG NGUYỄN VĂN MINH VÀ TRẦN VĂN TRÀ.

 

Trong suốt thời gian gần ba tuần lễ sau trận tấn công lần thứ nhất ngày 13/4/1972 cho đến đầu tháng 5/1972 khi Đi tá Walter Ulmer thay thế Đi tá William Miller ở An Lộc thì mặt trận ở phía nam, SĐ21BB ca Thiếu tướng Nguyễn Vnh Nghi được điều độ̣ng từ miền tây lên tăng viện với ba Trung đoàn 31, 32, 33 và Thiết đoàn 9 K binh, thay thế Lữ đoàn 1 Nhy Dù ca Đi tá Lê Quang Lưỡng –đã vào An Lộc– đang lo gii ta chốt chặn ca Sư đoàn SĐ-7/CSBV trên trc QL-13, từ phía bắc quận l Chơn Thành lên An Lộc. “Chốt chặn” gồm nhiều “chốt nh” ca các đơn v trực thuộc đi đơn v này. Mỗi chốt nh gồm có hệ thống hầm hố liên hoàn yểm trợ nhau –thường được binh s gi là “kiềng” như loi kiềng ba chân– tức một hệ phòng th chặn trc lộ với ba hệ thống hầm hố, đa đo… bo vệ cho nhau, kéo dài hàng chc cây số trên trc lộ gồm c khu vực rộng lớn hai bên đường. Trên lý thuyết một “cứ điểm” ca QLVNCH hay một “chốt chặn” ca CSBV –nếu được phòng th với hệ thống kiên cố— lực lượng tấn công chiếm điểm hay bứng chốt cần một quân số gấp ba lần, là ít nhất, để có thể thành công. Tướng Minh đã điều ngược li với dng ý… như một đi k thù trong bàn cờ ở (trận) QL-13 và An Lộc này năm đó.

Nên lưu ý theo trc QL-13 thì từ Lai Khê lên Chơn Thành là 30km. Từ Chơn Thành, một quận ca tnh Bình Long, lên An Lộc th ph ca Bình Long, cng 30km.

Toàn bộ SĐ21BB di chuyển vào lãnh thổ V3CT từ ngày 10/4/1972 và hoàn tất vào ngày 12/4/1972. Tướng Nguyễn Vnh Nghi đóng Bộ Tư lệnh Hành quân nh SĐ21BB ở căn cứ Lai Khê chung với Bộ Tư lệnh Hành quân nh ca QĐIII & V3CT. Ông cho điều động Trung đoàn 31 lên vùng Suối Tre, chừng 6km tây bắc Lai Khê và giữ Trung đoàn 33 làm trừ b ti Lai Khê. Trước tiên ông đưa Trung đoàn 32 bằng đường bộ lên Chơn Thành ngày 11/4. Quốc lộ 13 từ Lai Khê lên Quận Chơn Thành từ ngày các đơn v ca Tướng Nghi vào vùng hành quân lưu thông tốt sau khi Lữ đoàn 1 Nhy Dù bứng các chốt ca hai Trung đoàn 141, 209 ca SĐ-7/CSBV tăng cường Trung đoàn biệt lập 101 và các đơn v chống chiến xa và phòng không ca CSBV ở vùng Bàu Bàng (chốt chặn lần thứ nhất) từ ngày 9 đến 11/4. Sau đó Ông nhận được lệnh kiện toàn hệ thống phòng th vùng từ tnh l Bình Dương lên quận Bến Cát và căn cứ Lai Khê lên đến căn cứ Vân Đồn, ở hướng bắc Lai Khê chừng 6km… trong vòng mười ngày (từ 14/4 đến 24/4/1972…) nhưng b trống quãng đường dài chừng 20km từ căn cứ này đến phía nam quận l Chơn Thành. Tướng Minh cho rằng trong vòng mười ngày TWC/MN s cho đóng chốt lần nữa trên đon đường này.

Đúng vậy, đến ngày 24/4 qu thực đon đường này b đứt đon khi một xe đò b một đơn v ca SĐ-7/CSBV bắn cháy bằng B-40 làm cho nhiều người chết và b thương và đóng chốt lần thứ hai ở khu vực Bàu Bàng, phía bắc Lai Khê chừng mươi cây số, tức là cách căn cứ Vân Đồn, nơi đóng quân ca một Tiu đoàn thuộc Trung đoàn 33, chừng 6km, làm tắt nghn vận chuyển tiếp tế cho các đơn v khác ở Chơn Thành. Chốt chặn lần này rất mnh gồm Trung đoàn 101 bộ binh biệt lập ca VC, được tăng cường các đơn v phòng không, chống chiến xa, và đặc công… kể c lực lượng tăng cường gồm hai Tiu đoàn ca các Trung đoàn 209 và 165 thuộc SĐ-7/CSBV như Tướng Minh đã tiên liệu…. Ông cng biết rằng dù “bứng” chốt chặn ở khu vực Bàu Bàng này xong SĐ21BB, với ba Trung đoàn bộ binh cơ hữu và một thiết đoàn k binh s khó gii ta QL-13 đon đường dài nối tiếp 30km từ phía bắc Chơn Thành lên An Lộc. Ông là v tướng dùng quân rất thận trng, như đã nói, nên đã xin BTTM/QLVNCH tăng cường thêm lực lượng. BTTM tăng cường cho QĐIII & V3CT Lữ đoàn 3 Nhy Dù. Một kế hoch mới được thiết lập để bứng các chốt chặn trên vùng bắc Chơn Thành cho đơn v Dù mới tăng viện. (Nếu tính về quân số thì lực lượng Dù tung vào gii chốt vùng bắc Chơn Thành ch bằng 1/3 quân số ca đơn v đóng chốt là SĐ-7/CSBV. Đó là điều “nghch lý” mà tôi nêu ở phần trên, nhưng li nằm trong kế hoch có dng ý ca Tướng Nguyễn văn Minh. Sau này, mới hiểu dng ý ca Tướng Minh trong kế hoch này là dùng ít quân thiện chiến để kềm đi quân ca đch nằm ti chỗ tiêu diệt bằng phi pháo, đồng thời đánh nhử để biết rõ thực lực ca đch ở các chốt chặn đó, và kéo thêm những đơn v lớn ca chúng vào vùng chốt chặn mà nới áp lực ở mặt trận chính An Lộc…)

Kế hoch hành quân mới gi là “Toàn Thắng 72-D”, được tiến hành từ ngày 24/4 với ba Tiu đoàn 1, 2 và 3 ca Lữ Đoàn 3 Nhy Dù do Trung tá Trương Vnh Phước ch huy (Ông thăng cấp Đi tá không lâu sau đó), có sự phối hợp ca Trung đoàn 31 Bộ binh, Đi đội Trinh sát ca SĐ21BB. Và Thiết đoàn 5 K binh. Đây là cuộc hành quân gii ta lần thứ hai vào Suối Tàu-Ô ca lực lượng Dù, nhưng là lần thứ nhất vào ấp Tân Khai. Thực ra, c hai lần: lần trước sử dng Lữ đoàn 1 Dù ca Đi tá Lê Quang Lưỡng và lần này Lữ đoàn 3 Dù ca Đi tá Trương Vnh Phước đánh vào Suối Tàu-Ô không phi là để thực sự “bứng” chốt mà ch “kềm” đch ti chỗ…. Hay nói rõ ràng hơn ch là một cuộc “hành quân cường thám” vào hang hùm, cấp lữ đoàn mà thôi. Một cuộc hành quân cường thám với lực lượng khá lớn như vậy nếu bứng được chốt thì bứng, không bứng được thì rút, dù có tổn thất cng biết rõ được thực lực ca đch trong “hang hùm” ca chúng lên đến mức nào… (Cng nên lưu ý rằng Tướng Minh xuất thân là một s quan Nhy Dù từ khi ra trường Đà Lt cho đến khi mang cấp bậc đi úy mới ra khi Lữ đoàn Nhy Dù và làm Trưởng phòng 3 Bộ Tham mưu Phân Khu Sài Gòn – Ch Lớn ca Đi tá Dương văn Minh (người mà sau này thăng đến Đi tướng, hai lần làm sp đổ hai nền Cộng Hòa ca miền Nam) cng là Bộ Tham mưu Hành quân ca ông này trong chiến dch Chợ Lớn và Rừng Sát bình phc lon quân Bình Xuyên ca By Viễn (1954-1955). Đối với các cấp ch huy Nhy Dù như các Đi tá Lê Quang Lưỡng và Trương Vnh Phước thì Tướng Minh là bậc huynh trưởng, nên dù cho các ông có x thân cho huynh trưởng trong chiến trận cng không tiếc. Đó là truyền thống cao quí ca các s quan Nhy Dù).

Với hai lữ đoàn hành quân trong mặt trận, Sư đoàn Nhy Dù phi lập BTL/HQ nh do Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu ch huy –đóng chung với Bộ Ch huy ca Trung đoàn 32 ti Chơn Thành– để theo dõi và yểm trợ cho hai lữ đoàn trực thuộc (Lữ đoàn 1 ở An Lộc và Lữ đoàn 3 đang hành quân trên QL-13). Trên nguyên tắc, Tướng Nguyễn Vnh Nghi là Tư lệnh các lực lượng gii ta QL-13. Tuy nhiên trong cuộc hành quân đặc biệt Toàn Thắng 72-D này, Bộ Tư lệnh nh ca Sư đoàn Nhy Dù trực tiếp ch huy Lữ đoàn 3 Dù và Thiết đoàn 5 K binh. Đơn v trưởng ca đơn v thiết k này là Đi tá Trương Hữu Đức, hy sinh trong lần gii ta trước khi phối hợp với Lữ đoàn 1 Nhày Dù (ngày 13/4, thăng cố Chuẩn tướng).

Trong ngày 24/4 Trung đoàn 31 Bộ binh được trực thăng vận từ vùng Suối Tre lên phía đông nam Suối Tàu-Ô chừng 3km, bên sườn QL-13, để hỗ trợ cho Lữ đoàn 3 Nhy Dù trực thăng vận vào vùng hành quân. Lữ đoàn này vừa rút từ mặt trận Tây nguyên về và được đưa ngay vào trận đa QL-13. Ngày hôm sau, 25/4 Tiu đoàn 2 Nhy Dù được trực thăng vận xuống bãi đáp đã dự trù phía đông QL-13, quãng giữa Suối Tàu-Ô và xã Tân Khai ở phía bắc đ tấn công vào hai mc tiêu đó. Ngay khi trực thăng vừa đổ quân, Tiu đoàn này –do Trung tá Lê văn Mnh ch huy– đã b pháo kích súng cối và bắn phòng không, nhưng vẫn tiến đánh các mc tiêu đã ấn đnh. Ngày 26/4, Tiu đoàn 1 Nhy Dù ca Thiếu tá Lê Hồng được đổ tiếp vào trận đa nhưng vượt sang phía tây quốc lộ tiến v hướng tây bắc lên đến xã Đức Vinh, chiếm mc tiêu này, chừng năm cây số phía bắc Tân Khai và khong 8 km nam An Lộc. Lúc đó quân CSBV sợ và ngh là lực lượng ca Tướng Nghi s từ phía nam tiến lên gii ta Suối Tàu-Ô hơn là đánh ở quãng trên, tức vùng ấp Đức Vinh, phía bắc Tân Khai. Vì vậy việc đóng chốt ca chúng ở vùng suối Tàu-Ô và ấp Tân Khai rất vững, kiên cố, với hai Trung đoàn 209 và 165 tăng cường các đơn v phòng không và chống chiến xa. Còn ở ấp Đức Vinh chúng b trống. Do đó Tiu đoàn 2 Dù ca Trung tá Lê văn Mnh chm đch rất mnh ở c hai khu vực Suối Tàu-Ô và Tân Khai. Còn Tiu đoàn 1 Dù ca Thiếc tá Lê Hồng ch chm nh ở Đức Vinh. Tiu đoàn 2 Dù phi đóng một căn cứ tm trong khu vực hành quân, với một số khẩu 105 pháo binh dã chiến mang theo yểm trợ.

Trong nhiều ngày liền Tiu đoàn Dù này đã mở nhiều đợt tấn công vào các chốt ca đch nhưng không thể chiếm được các mc tiêu này ca SĐ-7/CSBV, mặc dù được sự yểm trợ ca KQVN và KLHK kp thời và dữ dội, với ha lực ca các phi xuất dội bom khng khiếp vào khu vực đóng chốt ca chúng, kể c các phi v B-52. Hơn một tuần, từ ngày đổ quân cho đến ngày 2/5, sau nhiều đợt tấn công, rồi liên tc b phn công hay b dập pháo vào căn cứ dã chiến, và mặc dù tổn thất ca CSBV rất nặng, cánh quân ca Tiều đoàn 2 Dù không thể “bứng” được các chốt trên QL-13 ở hai vùng chốt chặn nói trên. Ở khu vực ấp Đức Vinh ở phía bắc Tân Khai, TĐ1ND khi mới đổ quân vào ch chm súng nh. Nhưng cho đến ngày 2/5/1972, thì căn cứ dã chiến ca Tiu đoàn ở ấp Đức Vinh bắt đầu b tấn công mnh “tiền pháo hậu xung”. Tin tức tình báo k thuật ghi nhận là từ đầu tháng 5, Trung đoàn 271 ca SĐ-9/CS được tái bổ sung sau trận tấn công An Lộc lần đầu 13/4 và b tổn thất lớn, đã được TWC/MN đưa xuống vùng tây bắc ấp Đức Vinh, đồng thời Trung đoàn 141 ca SĐ-7/CSBV, sau khi kết hợp với hai Trung đoàn F6 và 275 ca SĐ-5/CS tấn công Tiu đoàn 6 Dù tái chiếm vùng Đồi Gíó, Đồi 169 và Srok Ton Cui ở đông nam An Lộc từ 18 đến 21/4, cng được tr li cho SĐ-7/CSBV và rút về vùng ấp Đức Vinh để kết hợp với Trung đoàn 271 ca SĐ-9/CS nhằm ngăn chận và tiêu diệt TĐ1ND không cho tiến lên An Lộc… Những gì Tướng Minh dự trù đều diễn ra đúng như vậy. Đánh nhử phía nam để đch quân giãn bớt quân ở An Lộc phía bắc.

Tuy đã tính trước là kéo các đơn v lớn ca TWC/MN về vùng chốt chặn, nhưng với tình hình nguy hiểm đó, trong ngày 2/5, Tướng Minh ra lệnh cho Tướng Nghi và Bộ Tư lệnh nh ca Sư đoàn Dù đưa Trung đoàn 31 ở phía đông QL-13, đông bắc Chơn Thành, lên Đức Vinh và cng cho trực thăng vận Đi đội Trinh sát ca SĐ21BB từ Lai Khê vào ấp Đức Vinh để tăng cường cho Tiu đoàn 1 Nhy Dù. Ông cng ra lệnh cho Lữ đoàn 3 Nhy Dù trực thăng vận Tiu đoàn 3 Dù vào vùng hành quân Suối Tàu-Ô và Tân Khai tăng cường cho Tiu đoàn 2 Dù.

Phi thành thực ghi nhận rằng SĐ-7/CSBV là đơn v thiện chiến. Chẳng những các đơn v thuộc Sư đoàn này đã lợi dng sự kiên cố ca hệ thống phòng th do quân lực Hoa K thiết lập ngày trước ở hai bên trc lộ ở khu vực Suối Tàu-Ô, cng cố các v trí đó thêm, để đ sức chu đựng phi pháo vô cùng dữ dội ca Không Lực Hoa K, kể c sự tàn phá ghê gớm ca hàng mấy mươi phi xuất B-52, và hàng trăm phi v đánh bom và không kích khác ca Không quân Chiến thuật Hoa K và KQVN suốt chiều dài ca chiến dch Nguyễn Huệ mùa Hè năm đó, Sư đoàn này còn có kh năng tổ chức hệ thống phòng th di động, có ngha là, ngoài các đơn v giữ chốt với hệ thống hầm hố và giao thông hào, sâu, nối liền dày đặc trong khu vực đóng chốt –và thường xuyên thay quân– chúng còn tổ chức những đơn v đánh phn công, từ cấp Đi đội hay cấp Tiu đoàn tăng cường phòng không, với các đội trinh sát bám thật sát theo các đơn v hành quân ca ta trong vùng để ch điểm đánh pháo, hoặc đánh phc kích và tấn công. Do đó, các đơn v Dù, từ ngày được đưa vào vùng hành quân gii ta QL-13 từ Suối Tàu-Ô lên phía bắc Tân Khai và Đức Vinh theo Kế Honh Toàn Thắng 72-D, đã khó tiến gần đến khu vực chốt phòng ngự thực sự ca CSBV, ngược li luôn luôn b chúng dập pháo hoặc phc kích trên các trc lộ xuất phát từ căn cứ dã chiến trong khu vực. Những sự kiện này giúp cho Tướng Minh ước tính được lực lượng ca TWC/MN ở các chốt chặn phía bắc Chơn Thành nhiều ít, mnh yếu, như thế nào dù ông biết rằng các đơn v tăng viện s gặp khó khăn và tổn thất vì ít quân, nhưng ông tin tưởng vào sự thiện chiến ca các đơn v Dù và nhất là sự đánh ph đầu bằng các trận bom dội xuống mc tiêu…. Tuy nhiên ch với cấp một Tiu đoàn cho mỗi khu vực mc tiêu thì quá ít và nguy hiểm…. Thí d như khu vực Suối Tàu-Ô do nguyên Trung đoàn 209 ca SĐ-7/CSBV cộng thêm các đơn v phòng không với đi bác 37 ly Liên xô di động và ha tiễn hồng ngoi tuyến mới nhất SA-7 cá nhân chống chiến đấu cơ, nhất là các loi trực thăng (ca một Tiu đoàn thuộc Trung đoàn 271 Phòng không, SĐ-70 Pháo/TWC.MN) và loi ho tiễn AT-3 Sagger chống chiến xa (Tiu đoàn 41 Chống Chiến xa) và đơn v trng pháo (một Tiu đoàn ca Trung đoàn 208 Pháo dã chiến với các loi súng cối 82 ly, 120 ly ca Liên Xô, ha tiễn 122 ly) trong khi lực lượng tấn công “bứng” hay “kềm” chốt ch là một cánh quân chừng hai Đi đội ca TĐ2ND tăng cường một pháo đội Dù với 4 khẩu 105 ly. Còn ở vùng Tân Khai, SĐ-7/CSBV có Trung đoàn 165, trong khi lực lượng ca ta ch có một cánh quân khác chừng hai Đi đội cng ca Tiu đoàn 2 Dù. Như khi ta đưa Tiu đoàn 1 Dù vào ấp Đức Vinh, phía bắc Tân Khai, tức khắc TWC/MN điều ngay Trung đoàn 141 ca SĐ-7/CSBV về đó li còn tăng cường thêm Trung đoàn 271 ca SĐ9/VC. Ở đâu quân đch cng nhiều gấp 3 hay 4 lần hơn quân bn.

Trong chiến tranh, đôi khi người ta nhìn thấy những điều tưởng chừng như phi lý hay sai nguyên tắc thí d như chuyện dùng quân ca Tướng Nguyễn văn Minh kể trên… nhưng sau này ngh li mới nhận ra rằng lúc đó đã có cuộc đấu trí lớn lao giữa ông và Tướng Trần văn Trà ở tuyến đường 60km từ Lai Khê lên An Lộc mà quận l Chơn Thành là tâm điểm trng yếu nhất.

Ai cng biết muốn tiêu diệt SĐ5BB ca QĐIII phòng th tnh l An Lộc tất nhiên phi cắt con đường bộ tiếp viện và tiếp vận ca Sư đoàn này, tức là Quốc lộ 13. Đon đường lý tưởng nhất cho việc đóng chốt khóa trc lộ đó hẳn nhiên phi là vùng Suối Tàu-Ô lên đến ấp Tân Khai, từ 15km đến 20km phía bắc quận l Chơn Thành. Tân Khai ở phía nam tnh l An Lộc chừng 10km. Tư lệnh bộ TWC/MN đã điều động nguyên vn SĐ-7/CSBV tăng cường các đơn v phòng không, chống chiến xa, đóng chốt khu vực rng lớn này và tổ chức li đa thế thành một trận đa với hầm hố và đa đo ẩn náu tránh được phi pháo dữ dội nhất và chống tr được các cuộc tấn kích chiến xa và bộ binh, như nói trên. Trong khi đó Tướng Trà sử dng lực lượng tổng hợp khác, hơn 3 Sư đoàn –2 bộ binh, 1 pháo binh, và 3 Trung đoàn biệt lập chiến xa và đặc công– để tiêu diệt lực lượng VNCH phòng th An Lộc. Kế hoch trên được thi hành từ ngày 7/4/1972 sau khi TWC/MN đã chiếm xong Lộc Ninh. Ngày 8/4/1972 An Lộc đã b bao vây, phía nam b SĐ-7/CSBV cắt mất đường tiếp vận. Có l Tướng Trần văn Trà ca TWC/MN không ngh rằng đã gặp một đch th túc trí và dè dặt như Tướng Nguyễn văn Minh. Tôi đã trình bày phần trên Tướng Minh đã sử dng tin tức để xin tăng cường quân cho Vùng 3 CT và An Lộc như thế nào. Xin nói tiếp thêm rằng, có l Tướng Trà cng ngh là Tướng Minh có thể xin tăng viện được một Sư đoàn từ miền Tây điều động lên ngoài các đơn v Dù và Biệt Động Quân. Xin ghi nhớ, SĐ21BB từ miền Tây lên thì Trung đoàn 32 Bộ binh đến căn cứ Lai Khê ngày 10/4/1972 và được đưa lên Quận Chơn Thành ngày hôm sau 11/4 bằng xe vận chuyển đường bộ. Hai Trung đoàn 31, 33 Bộ binh và Thiết đoàn 9 K binh đến Lai Khê ngày 12/4.

Quận l Chơn Thành trấn giữ trc giao thông ở giao điểm Ngã Tư QL-13 lên An Lộc và QL-14 dẫn qua tnh Phước Long lên Qung Đức… được coi là trng điểm chiến thuật phía nam An Lộc.

C Tướng Minh lẫn Tướng Trà đều biết rõ đa điểm này là quan trng cho sự mất còn ca An Lộc. Tướng Minh luôn luôn cho trấn đóng ti đây một Trung đoàn, vừa để bo vệ điểm “xuất phát” gii ta trc lộ từ đó lên An Lộc, vừa là điểm “nhử” cho quân CSBV đến để diệt bằng phi pháo. Đch đến càng nhiều càng tốt. Tướng Trà chắc chắn s không thí quân đánh chiếm Chơn Thành, vì bốn ngã đều “th đch”, chưa kể phi pháo. Tướng Minh biết như vậy nên ông “b ngõ” quãng đường giữa từ Lai Khê lên Chơn Thành từ chiều ngày 11/4/1972 sau khi Trung đoàn 32 ca SĐ21BB đã lên Chơn Thành chuẩn b thay thế cho Lữ đoàn 1 Nhy Dù rút quân tăng cường cho An Lộc. Ông ch cho một Tiu đoàn ca Trung đoàn 33 đóng quân ở Căn cứ Vân Đồn, 6km phía bắc Lai Khê, và án binh bất động chờ đch đến, sau khi rút Lữ đoàn 1 Nhy Dù ngày 14/4/1972 đưa lên An Lộc. Như vậy đon đường còn li từ phía bắc căn cứ Vân Đồn lên Chơn Thành là trên 20 km, b trống thực sự từ ngày đó. Đương nhiên Tướng Trà phi hành động. Nếu để đon đường từ Lai Khê lên Chơn Thành cho SĐ21BB sử dng thong th thì chốt chặn từ Suối Tàu Ô ca TWC/MN lâm nguy b “bứng” và như vậy là không dứt điểm được An Lộc khi đi đơn v này ca Tướng Minh tiến lên tiếp viện. Do đó, một mặt TWC/MN tổ chức vội vã tấn công An Lộc lần thứ nhất từ ngày 13/4 đến ngày 17/4/1972, thiếu chuẩn b, thiếu phối hợp, và nhất là thiếu quân. Rồi lần thứ nhì từ 18/4 đến 21/4/1972, cng vội vã như vậy…. Mặt khác, TWC/MN đưa Trung đoàn 101 biệt lập, cộng thêm hai Tiu đoàn ca các Trung đoàn 209 và 165 ca SĐ-7/CSBV, phối hợp với các đơn v phòng không và chống chiến xa xâm nhập trở li và lập chốt chặn lần nữa ở khu vực Bầu Bàng.

Mặc dù sau hai đợt tấn công ca quân CSBV do TWC/MN ch đo thất bi, Đài Phát thanh Hà Nội tuyên bố với thế giới là chúng đã chiếm được An Lộc ngày 18/4. Quyết tâm ca Quân y Trung Ương đã rõ ràng, An lộc là điểm chiến lược ca cuộc Tổng Tấn Công ca CSBV mà không là Qung Tr, không là Kontum, TWC/MN không thể coi thường).

TWC/MN lâm vào thế phi h quyết tâm chiếm cho được An Lộc trong những trận đánh kế tiếp với những nỗ lực dù phi tận dng đến đơn v cuối cùng. Do đó, ngoài việc cng cố li lực lượng và chu toàn kế hoch để tấn công và chận viện từ Chơn Thành trở lên An Lộc, TWC/MN cng điều các đơn v đặc công và pháo phá rối căn cứ Lai Khê, căn cứ ca SĐ5BB nhưng lúc đó là nơi Bộ Tư lệnh Hành quân ca Tướng Minh và là trung tâm yểm trợ cho các đơn v QĐIII hành quân trên QL-13, và đưa một Trung đoàn khác tấn công dữ dội để mong dứt điểm các căn cứ Tống Lê Chân và Minh Thnh nằm trên Sông Sài Gòn, do các đơn v BĐQ/BP và BĐQ trấn đóng –cách An Lộc về phía tây nam từ 18km đến 25km, theo đường chim bay– để khai thông đường chuyển quân và tiếp vận ca chúng giữa các mật khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh và Chiến khu D ở liên ranh Biên Hòa và Bình Dương cho những trận tiến công mới. Nếu trong tiểu tiết TWC/MN có thu nhặt được một vài kết qu nh thì trên tổng thể TWC/MN rối rắm và mất thế ch động ở suốt c mặt trận Bình Long, từ An Lộc xuống phía nam quận l Chơn Thành không thể thực hiện được sách lược ca Bộ Chính tr đng CSVN vì cách điều quân đầy mưu lược theo một thời biểu có tính toán và rắc rối ca Tướng Minh làm cho Tư lệnh bộ ca Tướng Trà không đoán được Tướng Minh đánh phn công gii ta An Lộc như thế nào… Khi b trống đon đường từ căn cứ Vân Đồn lên phía bắc gần quận l Chơn Thành, Tướng Minh đã buộc TWC/MN quyết đnh và h đã quyết đnh sai lầm. Hai lần TWC/MN đưa những cánh quân lớn vào đóng chốt đon đường phía nam Chơn Thành, hai lần đầu b “bứng” với tổn thất nặng. Lần đầu từ ngày 8/4 chắc chắn nằm trong nhu cầu chiến thuật theo kế hoch ca TWC/MN khi tung quân bôn tập tấn công An Lc, cần thiết phi chặn đường chuyển quân tiếp viện lên phía bắc ca QĐIII & V3CT. Lần thứ nhất đó chốt chặn b Lữ đoàn 1 Nhy Dù “bứng” trong ba ngày kch chiến từ 9/4 đến 11/4 với hai mi gíáp công từ Lai Khê đánh lên và từ Chơn Thành đánh ép xuống làm cho SĐ-7/CSBV, Trung đoàn biệt lập 101, và các đơn v yểm trợ khác thiệt hi hơn 200 cán binh, rút quân b chốt. Trái li, khi đóng chốt lần thứ hai ở Bàu Bàng từ ngày 22/4 rõ ràng TWC/MN b Tướng Minh ép vào thế chẳng đặng đừng. Lần sau này, chốt chặn ca các đơn v thuộc SĐ-7/CSBV tăng cường cng b SĐ21BB bứng với chiến thuật hai mi giáp công mà Lữ đoàn 1 Nhy Dù đã áp dng hai tuần trước đó. Trung đoàn 33 và Thiết đoàn 9 K binh (-) từ Lai Khê đánh lên và Trung đoàn 32 và một chi đoàn ca Thiết k 9 từ Chơn Thành đánh ép xuống với sự yểm trợ tối đa ca KQVN và KLHK. Tuy phi mất 5 ngày để thanh toán chốt chặn đó, từ 24/4 đến 28/4, nhưng đã làm cho các đơn v CS đóng chốt b thiệt hi nặng và từ đó về sau TWC/MN không còn đ lực lượng tái đóng chốt trên đon đường này nữa.

Điều đáng ghi nhận khác là việc điều động sử dng quân tăng viện ca Tướng Minh theo vòng quay kim đồng h làm cho TWC/MN rối rắm, bỡ ngỡ, mất c sự ch động cần thiết ca lực lượng tấn công. Ngược li Tư lệnh bộ ca Tướng Trà phi chy theo từng giờ từng ngày bởi sự chuyển quân nhanh chóng và không theo quy luật chiến tranh ca lực lượng b tấn công. Sư kiện điển hình thứ nhất là khi SĐ21BB đã hoàn tất cuộc chuyển quân từ miền Tây lên Lai Khê và Chơn Thành từ ngày 12/4 thì Tướng Minh không dùng Sư đoàn này tấn công bứng chốt Tàu-Ô ở phía bắc Chơn Thành mà li sử dng Lữ đoàn 1 Nhy Dù lúc đó vừa bứng xong chốt Bàu Bàng (9-11/4) và đóng ở Chơn Thành (11/4) rồi tiến lên “i” chốt Tàu-Ô ngày 12/4. Khi SĐ-7/CSBV ở đó đang chống đỡ, bỗng nhiên Dù ngưng tấn công và rút ra khi trận đa ngày 13/3 và ngày 14-15/4 đổ quân vào tăng viện An Lộc cùng với Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhy Dù (xin xem li phần trên). Sự chuyển quân bất ngờ này làm cho TWC/MN phi điều quân thêm bằng cách đưa bớt Trung đoàn 141 ca SĐ-7/CSBV từ vùng chốt chặn Tân Khai lên phối hợp với SĐ-5/CS và SĐ-9/CS vội vã tấn công vào An Lộc đợt 2 từ ngày 18/4/1972, như nói trên. Sự kiện điển hình thứ hai là sau khi TWC/MN không thể chiếm được An Lộc trong đợt hai tấn công này, dù chiếm li được vùng Đồi Gió và Đồi 169, Tướng Minh vẫn sợ An Lộc b nguy khốn nên tung Lữ đoàn 3 Nhy Dù vào suối Tàu-Ô và Tân Khai, nhưng quan trng hơn là vùng ấp Đức Vinh, phía nam gần An Lộc làm cho TWC/MN phi điều động Trung đoàn 271 ca SĐ-9/CS và Trung đoàn 141 ca SĐ-7/CSBV rời b vòng vây An Lộc rút xuống Đức Vinh mà chận không cho quân Nhy Dù tiến lên hướng An Lộc. Sức ép ca ca quân CSBV đối với thành phố nh này nh hơn sau đợt tấn công thứ hai ca chúng, mặc dù An Lộc vẫn b dập pháo mỗi ngày hơn một nghìn qa đi pháo các loi….

Hai sự kiện trên đây cho thấy rõ mưu lược và tài dùng quân ca Tướng Nguyễn văn Minh. Trên bàn cờ An Lộc và QL-13, rõ ràng rằng Tướng Trần văn Trà lép hơn Tướng Nguyễn văn Minh túc trí. Cuộc chiến ở giai đon này dằng dai ba tuần lễ từ 22/4/1972 đến 11/5/1972 mà Tướng Minh vẫn chưa thực sự tung lực lượng trừ b vào trận đa. Câu hi được đặt ra là:-Ti sao? Tr lời: Thứ nhất, Tướng Minh tin vào quyết tâm gan lì và kh năng cầm quân giữ An Lộc ca Tướng Lê văn Hưng và ca Đi tá Lê Quang Lưỡng với sự yểm trợ hùng hậu ca ho lực Không quân HK và KQVN. Thứ hai: Khi tung Lữ đoàn 3 Nhày Dù cường thám vào “hang hùm” suối Tàu-Ô lên đến ấp Tân Khai xong, hiểu rõ thực lực ca đnh quân ở đó, ông s dùng SĐ21BB vào trận đánh quyết đnh gii ta An Lộc…. Và hình như ông còn phi chờ thêm những đơn v tăng viện thiện chiến khác thích ứng cho kế hoch mới ca ông và tăng trợ cho Sư đoàn này.

Đến đây thì mi người đều thấy rõ cc diện chiến trường Bình Long giữa QĐIII & V3CT và TWC/MN Cộng Sn. Tướng Trần văn Trà lúc đó hình như cng đã hiểu nhiều hơn về Tướng Nguyễn văn Minh, đối th chính ca mình, nên tính toán k hơn, chưa ch động đánh lớn vội vã như hai trận tấn công trước trong suốt ba tuần lễ đó, trừ việc SĐ-7/CSBV còn chận đánh Lữ đoàn 3 Nhy Dù từ Suối Tàu-Ô lên Tân Khai, đến Đức Vinh. Trong thành phố An Lộc ch có những v chm súng nh vì các đơn v phòng th, tuy b hứng pháo mỗi ngày, nhưng vẫn bung dần ra từng căn phố, diệt mòn các đơn v Công sn đã chiếm khu vực phía bắc và đông bắc từ các trận tấn công trước, không rút ra được, đang cố bám sát các đơn v phòng th để tránh b oanh kích. Các chiến xa ca đch chưa b h trong các trận trước hình như cng áp dng k thuật lẩn trốn này trong các khu vực chúng đã chiếm trong th xã, nằm im hơi lặng tiếng dưới những mái nhà sập hay trong những căn phố long lở, trong khu vực chúng chiếm được, nhưng… ngy trang thật k. Chúng cng đã rút được ít nhiều kinh nghiệm về sự lợi hi ca “Ho Long”, vì có những chiếc tăng nhúc nhích di chuyển đâu đó đã b loi “spectre” này h trong nhiều đêm trước…

Rõ ràng lần này TWC/MN đang cng cố lực lượng, bổ sung quân, vận chuyển đn dược và… lập kế hoch mới quyết tâm dứt điểm An Lộc.


 

Tin bài liên quan:

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần kết)

Trương Thế Tử

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần 13)

Trương Thế Tử

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần 9)

Trương Thế Tử

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Việt Nam Thời Báo