Vũ Tú
(VNTB) – Gia Long, sau khi lên ngôi, để có cơ sở về luật pháp, lệnh cho Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu dựa vào Đại Thanh luật lệ và Luật Hồng Đức làm cơ sở soạn bộ luật cho triều Nguyễn có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là Luật Gia Long)
Nguyễn triều hình luật (tiếng Anh: “Gia Long Codes”) là văn bản pháp luật quan trọng nhất Việt Nam thế kỉ XIX được dùng trong suốt triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại. Bài viết này điểm lại những nét quan trọng về quê hương, gia tộc, con người và sự nghiệp của tác giả: danh nhân Vũ Trinh, và có bàn về bộ Nguyễn triều hình luật (còn có tên gọi Gia Long hình luật, Hoàng Việt luật lệ), bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất của nhà nước phong kiến Việt Nam.
1. Quê hương, gia tộc, con người và sự nghiệp của Vũ Trinh
Quê hương của danh nhân Vũ Trinh (1759 – 1828) trước đây là thôn Thọ Diên, xã Xuân Lan, trấn Kinh Bắc; nay là thôn Ngọc Quan (tỉnh Bắc Ninh). Thôn Ngọc Quan không chỉ là nơi hun đúc nhiều nhân tài mà còn lưu giữ truyền thống hiếu học và văn hóa lâu đời của vùng Kinh Bắc, từ xưa đến nay được biết đến là Thuận An thắng địa – Kinh Bắc danh hương.
Họ bên nội Vũ Trinh ở thôn Ngọc Quan nhiều đời nối tiếp thi đậu làm quan lớn: Khoa hoạn truyền gia – Văn chương hoa quốc, đóng góp cho đất nước nhiều danh sĩ nổi tiếng cả về trí tuệ lẫn nhân cách tiêu biểu cho tinh hoa văn hiến Kinh Bắc, ông nội là Hội nguyên Tiến sĩ, Tể tướng kiêm Quốc tử giám Tế tửu Vũ Miên. Họ bên ngoại của Vũ Trinh là dòng họ Trần ở Điền Trì (Chí Linh) cũng là dòng họ khoa bảng của Tể tướng Trần Cảnh, bởi vậy hai dòng họ là môn đăng hộ đối.
Danh nhân Vũ Trinh là nhà văn hóa, nhà ngoại giao, và quan chức có học vấn uyên thâm, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình cả thời Lê mạt và Nguyễn sơ. Cuộc đời chính trị của ông trải dài qua những biến động lịch sử lớn, nhưng ông luôn giữ vững khí tiết, cương trực và trung nghĩa.

Sử sách cho biết ngay từ nhỏ Vũ Trinh đã nổi tiếng thông minh, học rộng. Năm 17 tuổi (1775), ông thi đỗ thủ khoa khoa thi Hương tiến, sau đó ông dự thi Hội và đỗ Tam trường khoa thi Hội, và nổi tiếng hơn nhiều các Tiến sĩ Nho học. Sau khi đỗ đạt, Vũ Trinh được bổ nhiệm làm quan, ban đầu từ Tri phủ dần thăng lên Tham tri Chính sự (Phó Tể tướng) ngay lúc còn rất trẻ chưa đầy 30 tuổi.

Tuy nhiên, trước sự suy tàn của triều đình Lê – Trịnh và sự trỗi dậy của phong trào Tây Sơn, ông trở về Hồ Sơn dạy học, viết sách. Ông không cộng tác với triều Tây Sơn dù nhiều lần được đại quan Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm mời, thể hiện sự kiên định lập trường chính trị và đạo đức Nho gia. Năm 1802, khi Nguyễn Ánh lên ngôi lập ra triều Nguyễn, Vũ Trinh được mời ra làm quan trở lại cho triều đại mới. Dưới triều Gia Long, ông được giao nhiều chức vụ quan trọng như Chánh sứ sang nhà Thanh, Hình bộ hữu Tham tri. Trong thời gian làm quan, Vũ Trinh là người thanh liêm, cẩn trọng, có tư tưởng cải cách ôn hòa, luôn lấy đạo lý và nhân nghĩa làm trọng. Vũ Trinh được người bạn là quan đầu triều là ông Tổng trấn Bắc Thành, đại tướng quân Nguyễn Văn Thành trọng vọng mời làm thầy cho con trai mình là phò mã Nguyễn Văn Thuyên. Ông vì bênh vực Văn Thuyên khi học trò hàm oan mà bị mất chức và đưa đi an trí tại Hội An. Tại Quảng Nam ông dạy học có đông học trò, hơn 10 người thi đậu, và được lập đền thờ ngay khi còn sống. Sự nghiệp chính trị của Vũ Trinh là tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm, lòng trung quân, và nhân cách cao quý của một Nho sĩ lớn trong giai đoạn chuyển giao lịch sử đầy biến động của đất nước.
Dựa trên những đóng góp đa dạng của ông về văn hoá, chính trị, giáo dục…ông được coi là một trong số danh nhân tiêu biểu người Bắc Ninh thời Nguyễn.
2. Sơ lược về bộ Nguyễn triều hình luật
Gia Long sau khi lên ngôi để có cơ sở về luật pháp, lệnh cho Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu dựa vào Đại Thanh luật lệ và Luật Hồng Đức làm cơ sở soạn bộ luật cho triều Nguyễn có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là Luật Gia Long), gồm 22 quyển và 398 điều sau đó Vua Gia Long cho ban hành chính thức vào năm 1813.


Tổng tài (chỉ đạo biên soạn) là một đại tướng (võ ban) Nguyễn Văn Thành, nhưng hai người soạn luật là hai vị quan văn là Vũ Trinh – Toản tu (Biên soạn chính) và Trần Hựu – Hiệp biện Toản tu (Phụ tá biên soạn). Trần Hựu là một người dưới quyền, nhưng có tài được Nguyễn Văn Thành cất nhắc trọng dụng, được cho giữ chức Đông các học sĩ Dương Xuyên hầu, Trần Hựu có sáng tác “Điểm Mê Khúc” bằng Quốc âm. Sử chép: “Gia Long xem sử sách của các thời trước, vua thường mời các văn thần là Vũ Trinh, Trần Hựu vào đọc sách Lịch đại thông giám và cùng bàn việc trị loạn đắc thất, đến lúc mặt trời xế bóng mới thôi” cho thấy vai trò quan trọng của hai vị Biên soạn và Phụ tá biên soạn Quốc luật.
Bộ luật này tuy tham khảo nhiều của Đại Thanh, tuy nhiên đã có những sự thay đổi, cập nhật cho phù hợp với điều kiện của nước ta thời Nguyễn, và có những sự tiến bộ so với Đại Thanh luật lệ, vẫn chứa đựng tư tưởng nhân quyền xuyên suốt của người Việt. Bộ luật đã kế thừa và phát triển giá trị nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức thể hiện qua nhiều điều luật cụ thể với 23 loại quyền, đó là các quyền dân tộc tự quyết, quyền được sống, quyền của phụ nữ…và nhiều quyền khác. Bộ luật này có 398 điều, quy định về các vấn đề như hộ tịch, tài sản, hôn nhân, thuế, nợ nần, tiền chợ búa, cũng như các quy định về hình phạt, tội phạm và các nghi lễ trong triều đình; được tổ chức theo các quyển, mỗi quyển tập trung vào một lĩnh vực cụ thể, tương ứng với việc của 6 bộ (Lại, Bộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Bộ luật cũng giữ lại các điều luật về tuyển phi cho vua. Luận án tại Đại học Vũ Hán của TS. Nguyễn Thị Thu Thủy có cho biết rõ: Nguyễn triều hình luật không “sao chép nguyên xi, mù quáng” của nước Đại Thanh, mà bộ Luật nhà Nguyễn đã chỉnh sửa, xử lý tinh tế để phù hợp với thực tiễn Việt Nam thời ấy. Nguyễn triều hình luật không những kế thừa giá trị nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức mà còn phát triển một số nhân quyền truyền thống ở trình độ cao hơn. Tác phẩm Nho gia tư tưởng đối Hoàng Việt luật lệ đích ảnh hưởng của Giáo sư Hà Thành Hiên (Viện Triết học Trung Quốc) nêu rõ: So với Luật Hồng Đức, bộ Luật Gia Long có tính hệ thống hơn, đầy đủ hơn, nội dung tỷ mỷ xác thực, phản ánh được đầy đủ hiện thực khách quan sinh động, sự tiến bộ trong tư tưởng và cách thức lập pháp cùng với các mối quan hệ phức tạp trong xã hội thời Nguyễn. Luật Gia Long đã kế thừa những điểm tiến bộ trong Luật Hồng Đức từ thời Lê. Đồng thời, Luật Gia Long cũng đã biết khéo léo tiếp thu những nét tinh hoa từ Đại Thanh luật lệ của Trung Quốc, chọn lựa những điều luật phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và phong tục của người Việt Nam. Vì vậy, Luật Gia Long mang bản sắc mới mẻ của riêng mình, chiếm vai trò tương đối quan trọng trong lịch sử pháp luật thế giới.
Bộ luật mang tính dân tộc, tính nhân văn và tính thực tiễn sâu sắc:
– Tính dân tộc: Hoàng Việt luật lệ đã có sự kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để xây dựng lên một bộ luật phù hợp cơ sở kinh tế – xã hội của Việt Nam thời Nguyễn.
– Tính nhân văn sâu sắc: Hoàng Việt luật lệ có những điều luật bảo vệ quyền lợi của người dân lao động, của nô tì, của phụ nữ, người già, trẻ nhỏ và người khuyết tật…
– Tiến bộ về kĩ thuật lập pháp:
+ Hoàng Việt luật lệ đã phân loại các điều luật theo các lĩnh vực;
+ Cấu trúc các quy phạm pháp luật gồm ba phần: giả định (đặt tình huống), quy định (xác định hành vi được phép hay không được phép làm) và chế tài (biện pháp xử lí)
Tóm lược nội dung các quyển:
Quyển 1, 2, 3: Ghi mục lục về luật các biểu đổ giá chuộc; năm hình phạt, nguồn gốc, ý nghĩa của hình phạt; đổ hình cụ, tang chế. Giải thích một số điểm trọng yếu của luật, cách xử lí tài sản bất hợp pháp. Danh lệ về thập ác và chủ yếu là những điều luật quy định về nguyên tắc chung (45 điều).
Quyển 4, 5: Luật Lại, quy định về chức chế và công vụ (27 điều).
Quyển 6, 7, 8: Luật Hộ, quy định về hộ tịch, điền trạch, đăng bạ, của cải, thuế điền thổ, trốn thuế. Điều chỉnh về hôn nhân, thu chi, cho vay, chợ, cửa hàng (66 điều).
Quyển 9: Luật Lễ, quy định về lễ nghi triều đình, tế tự, lăng tẩm, nhà cửa, y phục (26 điều).
Quyển 10, 11: Luật Binh, chủ yếu nhằm bảo vệ nhà vua, cung cấm điều chỉnh lĩnh vực quân sự, kiểm soát lưu thông, vấn đề biên giới, lưu chuyển công văn, trạm dịch (58 điều).
Quyển 12 đến quyển 20: Luật Hình (bao gồm cả hình sự và tố tụng), quy định về các nhóm tội phạm cụ thể và thủ tục khiếu tố kiện tụng, xét xử, giam giữ, thi hành án (166 điều).
Quyển 21: Luật Công, chủ yếu quy định về những vi phạm trong lĩnh vực xây dựng các công trình công cộng, kho chứa, đê điều, cầu đường (10 điều).
Quyển 22: Ghi mục lục Tổng loại và Tỉ dẫn điểu luật. Trong quyển này các nhà làm luật dự liệu 30 trường hợp so sánh để áp dụng tương tự.
Cấu trúc các điều luật: Thông thường, điều luật thường có cấu trúc: Tên tội, điều luật, giải thích, điều lệ, một số điều còn có thêm phần tập chú. Tuy nhiên, không phải điều nào cũng có cấu trúc đó.
Nội dung chủ đạo của Bộ Luật Gia Long
So với Luật Hồng Đức thì Luật Gia Long của triều Nguyễn hà khắc hơn, nhưng nội dung và cách áp dụng rõ ràng hơn. Điều này thể hiện qua việc ban hành các nguyên tắc: nguyên tắc luật định; nguyên tắc so sánh luật; nguyên tắc xét xử theo luật mới; nguyên tắc chiếu cố; nguyên tắc người thân thuộc được che giấu tội cho nhau; nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự; nguyên tắc luận tội theo tang vật; nguyên tắc chuộc tội bằng tiền. Luật còn nghiêm cấm sử dụng các bản án chưa được biên soạn vào Bộ luật để làm chuẩn cho việc xét xử. Trong luật cũng quy định, nếu quan lại cố tình bao che hoặc bẻ cong sự thật, thì bị ghép vào tội vô ý hay cố ý thêm bớt tội cho người và phải thẩm xét cho rõ ràng và cải chính ngay.
So với các bộ luật trước đó, bộ luật này có sự nét đặc sắc riêng là tiến bộ và nhân đạo. Điều dễ thấy nhất trong bộ luật là các cực hình trong luật nhà Thanh như: Tru di tam tộc, Lăng trì, Yêm,…đều hoàn toàn bị loại bỏ trong bộ Hoàng Việt luật lệ này.
Ngoài ra, tính nhân đạo của bộ luật còn thấy rõ qua từng phiên tòa mở trong năm (trừ các tội Mưu phản, Đại phản nghịch, Đạo tặc…). Theo luật, các phiên xử thường tổ chức vào đầu mùa thu chứ không mở vào đầu mùa hè. Vì theo luật, mùa hè, thời tiết nóng, sẽ ảnh hưởng xấu đến việc buộc tội của các phán quan. Nếu phiên tòa xử trong mùa thu năm nay mà chưa có phán quyết cuối cùng thì phải đợi đến mùa thu năm tới mới quyết án chung thẩm (gọi là Thu thẩm). Trường hợp gặp tội nhân bị án tử hình (giam chờ – đợi để chống án hoặc xin ân xá hay chờ thỉnh ý vua) thì cũng phải đợi đến mùa thu khi có phiên tòa mới xử chung thẩm. Việc mở phiên tòa vào mùa thu là một điểm đáng chú ý của bộ luật này, mà đến nay chưa có bộ luật nào ngay cả luật các nước khác có được. Đây là đặc điểm và tính nhân đạo nổi bật của Hoàng Việt luật lệ.
Bên cạnh đó, các điều luật trừng phạt kẻ có tội, trong bộ luật này được phân định rõ ràng, hình phạt nghiêm minh, nhất là đối với quan lại nắm luật pháp.
Chằng hạn, điều luật về quan lại phạm tội ăn đút lót, điều luật ghi: “Người có ăn lương nhà nước (người được lương mỗi tháng 1 thạch trở lên) lạm dụng luật pháp ăn đút lót của nhiều chủ, buộc tội chung nhận của người mắc tội mà xử cong luật quẹo pháp, nhận tiền của một người thì phạt trọn việc đó. Như nhận tiền của 10 người một lúc, việc đổ bể, tính chung một chỗ, xử trọn một tội. Còn tội phạm hai việc trở lên, một chủ trước bị phát giác và xử tội, tội sau bị phát giác nhẹ hơn, cũng bị xử. Một lượng trở xuống phạt 70 trượng, 1 lượng đến 5 lượng phạt 80 trượng, 10 lượng phạt 90 trượng, 10 đến 15 lượng phạt 100 trượng,… 80 lượng đúng phạt treo cổ.
Không lạm dụng luật pháp, ăn đút lót của nhiều chủ, tính chung xử tội theo nửa số đó. Tuy có nhận tiền của người nhưng không xử cong quẹo, song nhận cùng lúc tiền của 10 chủ, việc đổ bể, tính gộp chung xử phân nửa tội, một chủ cũng xử phân nửa tội. Một lượng trở xuống phạt 60 trượng, 1 lượng đến 10 lượng phạt 70 trượng, 20 lượng phạt 80 trượng, 30 lượng phạt 90 trượng, 40 lượng phạt trăm trượng,…120 lượng trở lên treo cổ.
Luật Gia Long quy định rất ngặt và xử lý nghiêm các trường hợp tham nhũng nhận tiền của hối lộ, bắt dân phải nộp tiền…nếu như ai bị mắc vào mức nào thì căn cứ vào luật mà xử đoán. Những viên quan nào đến mức bị tước bỏ bằng, sắc, cáo của vua ban và bị xóa tên trong sổ bộ quan là bị bãi chức hoàn toàn. Còn lại tùy thuộc vào số lượng tiền của nhận hay chưa nhận mà có hình thức trách tội khác như lưu đày, đồ, bãi nhiệm, đánh đòn…
Giá trị nhân đạo trong Luật Gia Long
Tư tưởng nhân đạo trong Luật Gia Long thể hiện rõ nhất ở những quy định mang tính nhân văn như: Chính sách khoan hồng đối với người phạm tội, bảo vệ người già và trẻ em; giúp đỡ những người tàn tật và cô quả, những người có hoàn cảnh khó khăn và những người phạm tội tuy chưa bị phát giác đã đi tự thú.
Một trong những quan điểm chủ đạo của người Việt Nam là trọng già yêu trẻ. Vì thế trong Luật Gia Long cũng áp dụng trong một số điều luật cho hai đối tượng này. Như trong quyển 3 mục Danh lệ, Điều 21 Lão thiếu phế tật thu phục (nhận giá chuộc đối với người già, trẻ em, người tàn phế): “Nếu người già 70 tuổi trở lên, trẻ em 15 tuổi trở xuống và người tàn phế (hư mắt, gãy chân) phạm tội lưu trở xuống cho nhận giá chuộc tội… Người già 80 tuổi trở lên, trẻ em 10 tuổi trở xuống bệnh nặng, phạm tội giết người thì nghị xử tâu lên vua chờ quyết định của vua…Người già 90 tuổi trở lên, trẻ em 7 tuổi trở xuống dù có phạm tội chết cũng không phải chịu hình phạt nào…”. Điều 22 thì viết: “Lúc phạm tội mà chưa già, chưa tàn tật, nhưng khi tội bị phát giác thì xử theo tội già và tàn tật…”. Quyển 19, mục Hình luật, Điều 10 quy định: “Những người trên 70 tuổi (xót thương người già), 15 tuổi trở xuống (vì lòng yêu mến trẻ), tàn phế (thương kẻ tàn phế) nếu có phạm tội thì quan không được dùng hình phạt tra khảo, chỉ căn cứ vào các chứng cứ mà định tội”.
Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trọng nam khinh nữ, nhưng trong Luật Gia Long vẫn có một số điều quy định chú ý phần nào đến quyền lợi và thân phận người phụ nữ. Trong thời phong kiến địa vị của người phụ nữ được đánh giá rất thấp, tuy nhiên ở một mức độ nào đó, nhân phẩm người phụ nữ vẫn được đề cao và tôn trọng. Pháp luật nghiêm cấm và có những hình phạt đối với những hành vi lừa gạt để kết hôn. Quyển 7 Hộ luật hôn nhân, Điều 12 Cưỡng chiếm lương gia thê nữ viết rằng: “Cưỡng đoạt vợ con gái nhà lành bán cho người khác làm thê thiếp, hay đem dâng cho vương phủ, cho nhà huân công hào thích thì đều bị xử giam chờ thắt cổ”. Hay trong quyển 7 mục Hộ luật hôn nhân, Điều 15 Xuất thê viết rằng: “Nếu chồng bỏ vợ đi biệt 3 năm, trong thời gian ấy không báo quan biết, rồi bỏ đi thì phạt 80 trượng, tự ý cải giá thì phạt 100 trượng”. Như vậy người đàn ông mới có ý thức trách nhiệm với người phụ nữ hơn, quan tâm đến gia đình mình hơn.
Người Việt Nam luôn đề cao và bảo vệ giá trị đạo đức tốt đẹp của con người, như lòng nhân ái, sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, tình nghĩa vợ chồng… Những tiêu chuẩn đạo đức đó đều được ghi nhận và đề cao trong Luật Gia Long. Tất cả những ai phạm tội thập ác đều phải chịu hình phạt nặng nhất. Đề cao lòng hiếu thảo, quyển 9 mục Lễ luật, Điều 17 Khí thân chi nhiệm quy định: “Tuổi già có bệnh ắt đợi cháu con về phụng dưỡng để sau yên phần. Nếu con đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà già trên 80 tuổi mà lại bị bệnh nặng, trong nhà không có ai thay mình chăm sóc, mà không chịu về hầu hạ, tham phú quý vinh hoa, lợi lộc, bỏ nhiệm vụ hầu cha mẹ, tội này khép vào tội bỏ nhiệm vụ chăm sóc cha mẹ. Hoặc có người ngược lại cha mẹ không bị bệnh tật mà nói dối rằng cha mẹ mình bệnh mong có người về phụng dưỡng. Như vậy một là bỏ rơi cha mẹ, là bất nhân, mặt khác là kẻ bất nghĩa với vua, nên phạt 80 trượng”. Tình thầy trò cũng được đề cao, thầy giáo là người truyền dạy đạo lý làm người, tình nghĩa sâu nặng, quyển 15 Hình luật, Điều 10 Ẩu thụ nghiệp sư quy định: “Nếu đánh thầy dạy học của mình thì tăng thêm hai bậc tội so với đánh người thường. Đánh thầy đến tàn tật thì xử 100 trượng lưu đày ba ngàn dặm…”.
___________________
Tham khảo:
[1] Nguyễn Quyết Thắng: Lược khảo Hoàng Việt luật lệ
[2] Ngô Dĩnh: Hoàng Việt luật lệ toát yếu diễn ca
[3] Lê Minh Trường: Bộ luật Gia Long là gì? Tìm hiểu về bộ luật Gia Long?
[4] Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa: Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long
[5] Dương Tuyết Miên: Quyết định hình phạt trong Hoàng Việt luật lệ