Hà Nguyên
(VNTB) – Có lẽ phải chờ đến năm 2023, khi Công ước 87 về tự do hiệp hội, được Quốc hội Việt Nam bắt đầu thực thi.
“Rừng” thủ tục hành chính
Lâu nay, quyền tự do lập hội và hiệp hội tại Việt Nam bị cho là hạn chế, bó hẹp trong một số lĩnh vực. Các hội, nhóm có khuynh hướng, quan điểm chính trị khác với đảng cộng sản sẽ bị trấn áp, buộc giải tán.
Mặt khác, quyền lập hội của công dân bị gây khó dễ bởi nhiều thủ tục hành chính, phải nhận được sự đồng ý của chính quyền và chịu sự can thiệp sâu của các cơ quan quản lý. Chính điều này dẫn đến việc hình thành Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, đã không thể thực hiện theo các trình tự của thủ tục hành chính liên quan.
Theo cổng thông tin điện tử của Bộ Nôi vụ, thì thủ tục để thành lập hội, hiệp hội (https://www.moha.gov.vn/dich-vu-cong.html?id=17921) chịu sự điều chỉnh của loạt văn bản pháp lý như sau: Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội;
Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội;
Thông tư số 03/2013/TT-BNV ngày 16 tháng 4 năm 2013 của Bộ Nội vụ quy định chi tiết thi hành nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP;
Thông tư số 03/2014/TT-BNV ngày 19 tháng 6 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ sửa đổi Thông tư số 03/2013/TT-BNV ngày 16 tháng 4 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định chi tiết thi hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP.
Trong ‘rừng’ văn bản pháp lý ở trên, thì có một điều khoản mà Hội Nhà báo độc lập Việt Nam không cách gì đáp ứng: cơ quan chủ quản. Còn phía quản lý nhà nước sẽ mạnh miệng nói rằng họ không vi phạm các cam kết về quyền tự do lập hội, vì rõ ràng là họ có bộ thủ tục hành chính rất chi tiết về chuyện lập hội.
Thiếu tự tin chính trị?
Liên quan về chuyện quyền lập hội, có quan điểm trong bối cảnh Việt Nam chưa có luật về quyền lập hội, thì nhà chức trách luôn biết dè chừng về quyền tự do lập hội với mục đích để phản đối, thì thường sẽ trái luật bảo vệ sự an toàn công cộng.
Ngay cả ở những nước đa nguyên chính trị, tại nhiều thành phố, cảnh sát có quyền giải tán bất cứ đám đông nào (ngay cả những đám đông những người phản đối chính trị) đe dọa sự an toàn công cộng, hoặc những đám đông mà cảnh sát không kiểm soát được. Đó là ý tưởng nhằm ngăn ngừa bạo động.
Thông thường, luật địa phương yêu cầu các nhà tổ chức phản đối phải được sự cho phép trước nếu cuộc diễu hành đã được định liệu. Tuy nhiên, đơn xin cho phép đó có thể bị từ chối. Quyền này thường bị các nhà làm luật lạm dụng, nếu các cuộc phản đối nếu nó không phổ biến trong cộng đồng hay ở chính quyền địa phương.
Quá trình cho phép ở một số thành phố tốn rất nhiều thời gian, việc tổ chức, và ngay cả tiền bạc trước khi có được sự cho phép và lúc đó thì các giới hạn về vấn đề, thời gian và địa điểm cho phép cũng có thể được thêm vào.
Về nguyên tắc chung, có thể thấy rằng quyền tự do hiệp hội được bảo vệ bởi nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, trong đó đặc biệt quan trọng là Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền (UDHR, 1948 – tại Điều 29) và Công ước về các Quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966 – tại Điều 22).
Bên cạnh đó, quyền tự do hiệp hội cũng được bảo vệ trong nhiều văn kiện như Công ước về Xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW, 1979 – Điều 7 về quyền tham gia vào các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội của phụ nữ), Công ước về Quyền trẻ em (CRC, 1989 – Điều 15 về quyền tự do hiệp hội và hội họp của trẻ em)…
Tuy nhiên, quy định của các Công ước kể trên tương đối khái quát. Riêng trong lĩnh vực lao động, quyền tự do công đoàn được quan tâm bảo vệ tại Công ước về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, 1966 – Điều 8), cũng như trong một số điều ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
Chờ đợi đến năm 2023
Ở miền Nam Việt Nam trước tháng 4-1975, Hiến pháp năm 1956 (Điều 15) và Hiến pháp năm 1967 (Điều 13) đều ghi nhận quyền tự do lập hội.
Trong Sắc luật 038-TT/SLU ngày 22/12/1972, sửa đổi Dụ số 10 ngày 6/8/1950 quy định thể lệ lập hội (ban hành dưới chế độ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại), Điều thứ nhất đưa ra một định nghĩa về hội: “Hội là giao ước của nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hoạt động liên tục để theo đuổi mục đích thuộc các lãnh vực tôn giáo, tế tự, từ thiện, văn hóa, giáo dục, xã hội, khoa học, mỹ thuật, giải trí, đồng nghiệp tương tế, ái hữu, thanh niên và thể dục, thể thao không có tính cách chính trị, thương mãi hoặc phân chia lợi tức. Hội do các nguyên tắc tổng quát của luật pháp chi phối, nhất là luật về khế ước và nghĩa vụ”.
Định nghĩa nói trên đề cao tự do thỏa thuận, đồng thời, khẳng định vai trò chủ yếu của luật về hợp đồng (khế ước) và nghĩa vụ (luật dân sự) điều chỉnh các hội (chứ không phải luật hành chính). Định nghĩa này cũng xác định phạm vi điều chỉnh, loại trừ các nhóm có tính cách chính trị, thương mại hoặc phân chia lợi tức.
Nhìn chung, khuôn khổ pháp lý về quyền tự do hiệp hội ở Việt Nam vẫn mang nặng tính hành chính, coi trọng sự quản lý thuận tiện của cơ quan nhà nước, chưa quan tâm nhiều đến tự do ý chí, tự do thỏa thuận của người dân. Bên cạnh đó, vẫn thiếu sự bình đẳng giữa các công dân trong hoạt động hiệp hội, cũng như thiếu sự bình đẳng giữa các hội.
Có lẽ mọi chuyện đành chờ đợi năm 2023, khi Quốc hội Việt Nam bắt đầu thực thi Công ước 87 về tự do hiệp hội.