Thục Đoan dịch
(VNTB) – Chính sách lúa gạo đã trở nên không bền vững, vì biến đổi khí hậu đang đe dọa vùng Đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ ở phía Nam Việt Nam
David Brown ngày 24/12. 2020.
*Các khoản đầu tư của Việt Nam vào Đồng bằng sông Cửu Long đã giúp quốc gia này trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu và sau đó là cường quốc sản xuất.
*Tuy nhiên, ngày nay, chính sách “gạo là trên hết” đã trở nên không bền vững, vì biến đổi khí hậu đang đe dọa vùng Đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ ở phía Nam Việt Nam.
*Trong những năm gần đây, các nhà hoạch định chính sách đã phải vật lộn để tìm cách bảo vệ vùng nông nghiệp quan trọng nhất của đất nước trước những tác động của nước biển dâng và việc xây dựng đập ở thượng nguồn.
*Bài viết này là bài đầu tiên trong loạt bài gồm hai phần về tương lai của ƒĐồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
Đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn và màu mỡ của Việt Nam xếp gần như đầu bảng trong bất kỳ danh sách địa điểm bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, như tôi [David Brown] đã viết cho Mongabay bốn năm trước, nước biển dâng và các kiểu thời tiết thay đổi không phải là mối đe dọa duy nhất đối với sự phong phú huyền thoại của vùng châu thổ.
Một loạt các công trình xây dựng đập ở thượng nguồn ở Lào, Trung Quốc và Cao Nguyên Trung phần Việt Nam đã ngăn chặn lũ lụt hàng năm mà cho đến gần đây đã mang lại một lượng lớn trầm tích dinh dưỡng cho đồng bằng và xả nước lợ. Và sau đó là sức ì của thể chế: Việt Nam đã chậm chạp từ bỏ chính sách bốn thập kỷ tập trung vào tối đa hóa sản xuất lúa gạo.
Có lẽ sự thay đổi diễn ra chậm chạp vì chính sách “gạo trên hết” của Việt Nam, đã hoạt động rất hiệu quả vào cuối thế kỷ trước với mong muốn thu được lợi nhuận từ xuất khẩu, quốc gia này đã đầu tư mạnh vào các đập nước và đê điều chế ngự lũ lụt để nông dân có thể trồng hai hoặc có nơi ba vụ lúa mỗi năm.
Những khoản đầu tư đó đã đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia. Vào cuối những năm 1990, Việt Nam thách thức Thái Lan với tư cách là nhà xuất cảng gạo số 1 thế giới. Đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, thu nhập từ xuất cảng gạo đã thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi thành một nhà sản xuất hàng hóa rất cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Có lẽ không ngạc nhiên khi các nhà quy hoạch, chính trị gia và đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD) đã chậm thừa nhận rằng chính sách ưu tiên cho việc trồng lúa đang trở nên không bền vững. Họ cũng không thấy rằng các khoản đầu tư khổng lồ vào các đập nước và đê điều được thiết kế và xây dựng để tối đa hóa sản lượng lúa đã làm giảm khả năng chống chịu thủy văn của đồng bằng và khả năng thu lợi nhuận của nông dân từ những thay đổi của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, khi tôi [David Brown], đến thăm vùng đồng bằng này trong vài tuần vào mùa hè năm 2016, rõ ràng là mọi thứ đã thay đổi. Báo cáo thứ tư và cũng là báo cáo cuối cùng của tôi trong năm 2016 đã kết thúc với một ghi nhận đầy hy vọng: các quan chức cấp cao ở Hà Nội và vùng đồng bằng đang nghiên cứu một đề nghị đã xuất hiện sau nhiều năm thảo luận giữa các chuyên gia Hà Lan và Việt Nam.
Được gọi là Kế hoạch Đồng bằng sông Cửu Long (MDP), nhấn mạnh các biện pháp thích ứng thay cho “một loạt các công trình thủy lợi ngày càng phức tạp”. Sự rõ ràng ấn tượng của kế hoạch được tóm tắt:
*Thừa nhận rằng mực nước biển dâng cao, các con đập ở thượng nguồn và sự thay đổi nhịp điệu hàng năm của mùa mưa và mùa khô đang khiến những nỗ lực của chính sách sản xuất ngày càng nhiều lúa gạo là không bền vững.
*Lập chiến lược rút lui có trật tự; đừng cố bảo vệ từng gang tấc bờ biển cuối cùng. Xem xét lại việc trồng lúa ba vụ ở vùng thượng du. Xây dựng các con đê xung quanh trung tâm đồng bằng, cao khoảng 1,5 mét so với mực nước biển hiện tại. Đào một con kênh lớn để chuyển nước về phía nam và phía tây từ nhánh thượng lưu của sông Mekong. Bảo tồn nước ngọt bằng cách khôi phục các tầng chứa nước tự nhiên ngầm dưới mặt đất và xây dựng các hồ chứa, bao gồm cả lưu vực theo mùa phía sau các đê biển ở các vùng ven biển.
*Chấp nhận rằng đối với một phần ba diện tích vùng trũng hiện tại của đồng bằng, tốt nhất là áp dụng nền kinh tế nước lợ. Bỏ việc trồng lúa ở đó. Khôi phục các rào cản cây đước của rừng ngập mặn và thiết kế lại các phương pháp nuôi trồng thủy sản hiện tại.
* Neo nền kinh tế đồng bằng vào kinh doanh nông nghiệp. Tập trung tận dụng nhiều giá trị từ các thu hoạch nhỏ hơn và đa dạng hơn. Sản xuất đầu vào tại địa phương. Đảm bảo nông dân có thể vay để xây dựng năng lực. Thu được nhiều giá trị hơn bằng cách xây dựng thương hiệu các sản phẩm chất lượng và tiếp thị thông qua các phương thức họp tác.
‘Một quyết định thực dụng’
Mùa thu năm nay, bị nhốt tại nhà ở California bởi đại dịch, tôi đọc trên truyền thông Việt Nam rằng dự án Cái Lớn-Cái Bé đã bắt đầu. CLCB là câu trả lời của Bộ Nông nghiệp đối với sự xâm nhập của nước biển vào các cánh đồng lúa trải dài dọc theo phía tây của đồng bằng sông Cửu Long.
Khi CLCB được hình thành, [thì chuyện] nước biển dâng, tầng nước ngầm cạn kiệt và các kiểu thời tiết thay đổi chưa phải là mối đe dọa thường xuyên đối với nền kinh tế nông nghiệp của vùng đồng bằng. Được ghi vào Kế hoạch 5 năm từ 2010 của Việt Nam, CLCB chỉ là một công việc lớn nữa đối với các kỹ sư thủy văn của Bộ Nông Nghiệp, nhóm đã khắc phục được dòng lũ hàng năm của sông Mekong.
Nhiều năm sau, thủ tướng Việt Nam đã phê duyệt số tiền tương đương 142 triệu đô la cho giai đoạn đầu của dự án. Phương tiện truyền thông địa phương đưa tin, một công ty trực thuộc Bộ NN & PTNT sẽ bắt đầu xây dựng các hệ thống tiêu thoát khổng lồ để ngăn nước mặn làm ô nhiễm cánh đồng lúa rộng 346.000 ha.
Các hãng thông tấn Việt Nam cũng đưa tin về dự án CLCB. Một chuyên gia độc lập cáo buộc Bộ NN & PTNT, trong số những vấn đề khác, sử dụng nỗi sợ hãi về tác động của biến đổi khí hậu như một con ngáo ộp để lái dư luận ủng hộ một “giải pháp” đã được triển khai quá phức tạp, tốn kém không cần thiết để phát triển, bảo trì và vận hành. Một giáo sư cho rằng vấn đề không phải là nước lợ mà là nỗi ám ảnh của Bộ NN & PTNT về việc trồng lúa thay vì trồng các loại cây khác, tôm và cá phù hợp với điều kiện địa phương.
Ông Nguyễn Ngọc Trân, người dẫn đầu một cuộc khảo sát cụ thể về thủy văn vùng châu thổ vào những năm 1980, chỉ trích Bộ NN & PTNT đã phớt lờ Nghị quyết 120 của Chính phủ vào tháng 11 năm 2017 sau cuộc thảo luận sâu rộng của các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam.
Theo quan điểm của ông Trân, Nghị quyết 120 đã thiết lập ưu tiên rõ ràng cho các phản ứng thông minh, linh hoạt, “thân thiện với thiên nhiên” trước các điều kiện khí hậu thay đổi. Thay vào đó, dự án CLCB lại đã muốn đầu tư vào “các biện pháp cấu trúc” không thể hoàn thành một cách dễ dàng. “Nếu chúng ta cứ vá chỗ này, vá chỗ kia trước khi chúng ta chắc chắn rằng giải pháp của mình là đúng, thì đơn giản là chúng ta sẽ gây hại nhiều hơn cho môi trường” Ông Trân lập luận.
Một quan chức cấp cao của Bộ NN & PTNT phản pháo lại. Cách ông nhìn nhận sự việc, các chuyên gia học thuật nên giúp Bộ giảm thiểu các tác động tiêu cực, nếu thực sự có, thay vì phản đối toàn bộ dự án thủy lợi CLCB.
Tôi tự hỏi điều này có phải là bằng chứng cho thấy Quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long chỉ là những lời bàn tán đầy hy vọng? Qua email, tôi đã đăng ký với một số chuyên gia địa phương mà tôi đã gặp bốn năm trước đó.
Không hẳn như thế, họ trả lời. Song song với dự án thủy điện CLCB, các yếu tố quan trọng của MDP đã được thực hiện.
Ở một phần ba phía trên của đồng bằng, nông dân ở vùng Tứ giác An Giang và Đồng Tháp Mười vui mừng vì việc trồng lúa ba vụ đã được bãi bỏ. Các con đê cao đã bị phá vỡ, khôi phục lại một vùng đồng bằng ngập nước ngọt rộng lớn.
Ở khu vực trung tâm đồng bằng, Bộ NN & PTNT không còn yêu cầu nông dân trồng lúa xuân; họ được phép thay vì phát triển các loại cây trồng có thể chịu được nước mặn xâm nhập mà bây giờ lên đến 80 km từ cửa sông. Tuy nhiên, các vườn cây ăn trái đang bị ảnh hưởng, và việc gia tăng nguồn nước ngọt quanh năm là một mục tiêu cấp bách.
Và, ở một phần ba thấp nhất của đồng bằng, một cuộc tranh cãi nảy lửa tiếp tục giữa những người nhấn mạnh rằng những vùng đất rộng lớn có thể được bảo tồn như những cánh đồng lúa và những người tin rằng nuôi trồng thủy sản nước lợ là chìa khóa cho sự thịnh vượng của dải ven biển. MDP nghiêng hẳn về việc tái lập rừng ngập mặn dọc theo đường bờ biển dài của đồng bằng và đằng sau rào cản “mềm” này, ưu tiên cho nuôi tôm có giá trị gia tăng cao.
Nước ngọt hiện là nguồn tài nguyên khan hiếm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Gần bờ biển, các tầng ngầm chứa nước bị cạn kiệt nghiêm trọng và phía sau các cửa tiêu thoát, kênh rạch bị ô nhiễm. Ở khu vực trung tâm, nước mặt hiện nay là nước lợ hầu như cả năm. Do đó, nhiều quy hoạch tập trung vào việc giữ nước ngọt ở các khu vực thượng nguồn trong mùa mưa và trong mùa khô, hướng nước ngọt đến các khu vực đang khát ở hạ lưu.
Các giáo sư tại Đại học Cần Thơ, một nhà tư vấn môi trường tự do, và nhân viên nước ngoài của IUCN-là những nguồn tin của tôi – cho biết đã có một quyết định giúp đỡ đáng kể cho MDP. Ở cấp địa phương và cấp cao của chính phủ Việt Nam, kế hoạch này thường được coi là một lý lẽ vững chắc để thích ứng linh hoạt với những căng thẳng về mức sinh sản trong khu vực. Mặc dù MDP thể hiện sự đột phá mạnh mẽ với thực tiễn đã được thiết lập và có công ty mẹ là người nước ngoài, nhưng logic của nó vẫn rất thuyết phục.
Đối với người Việt Nam và các đồng nghiệp Hà Lan của họ, quá trình MDP không chỉ là về môi trường mà còn về cách một môi trường xấu đi làm suy yếu nền kinh tế đồng bằng và sự phát triển xã hội của nó. Nghiên cứu học thuật gần đây xác nhận rằng vào năm 2016, “MDP [đã] thực sự có ảnh hưởng trong việc đưa ra những cách suy nghĩ mới về cả các vấn đề đồng bằng và các chiến lược chuyển đổi để phát triển kinh doanh nông nghiệp. Suy nghĩ đã thay đổi ở tất cả các cấp của hệ thống kế hoạch, mặc dù sự thay đổi ở cấp địa phương vẫn còn hạn chế nhất. Tuy nhiên, việc thực hiện rất mong manh. “
Điều mà lúc đó có vẻ nghi ngờ nhất và lúc này vẫn chưa chắc chắn là liệu cách tiếp cận mà các chuyên gia đã khuyến khích có thể được thực hiện tương thích với phong cách hoạch định chính sách cứng nhắc từ trên xuống của Việt Nam hay không.
Cứng nhắc như thế nào? Hãy xem xét CLCB, một dự án được hình thành cách đây 15 năm. Nếu có sự đồng ý rộng rãi rằng nó không còn phù hợp với hoàn cảnh, tại sao nó không được hủy bỏ, tôi đã hỏi các nguồn chuyên gia của mình.
“Thành thật mà nói,” một người nói, “chúng tôi đã đưa ra một quyết định thực dụng. Giai đoạn đầu của CLCB đã được tài trợ. Nó đã có động lực. Thay vì tiếp tục chiến đấu với kế hoạch đó và thua, chúng tôi quyết định điều quan trọng hơn là phải thúc đẩy việc tích hợp MDP vào kế hoạch 5 năm tới.”
(còn tiếp)
*Từ năm 2008, David Brown, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã nghỉ hưu, đã viết nhiều về các vấn đề chính sách công ở Việt Nam. Trong khi viết những bài báo này về Đồng bằng sông Cửu Long, ông đã nhận được sự giúp đỡ vô giá từ một số chuyên gia hành nghề ở đó. Mọi sai sót về diễn giải nên được quy cho tác giả chứ không phải nguồn của ông. Brown hoan nghênh các câu hỏi nghiêm túc về các bài báo ông viết cho Mongabay. (Email của tác giả: nworbd@gmail.com).