VNTB – Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu học thuật (nhất là trong lĩnh vực lịch sử) thường vấp phải ba khuynh hướng mà GS Phan Huy Lê từng nêu ra trước đó: Khuynh hướng giáo điều, công thức trong vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Khuynh hương “chính trị hóa lịch sử”, dùng lịch sử để minh họa một số quan điểm chính trị có sẵn, tự hạ thấp tính độc lập, vai trò sáng tạo của khoa học lịch sử; Khuynh hướng “hiện đại hóa lịch sử” theo ý nghĩa là trình bày lịch sử quá khứ như hiện đại, không tôn trọng tính đặc trưng của từng thời kỳ lịch sử.
Để thực sự thoát khỏi ba khuynh hướng nêu trên, bản thân người làm nghiên cứu phải lựa chọn cho mình một hướng đi độc lập, nơi tạo ra một không gian ít ảnh hưởng hay bị áp đặt, để khiến cho công việc nghiên cứu trở nên công bằng hơn, khách quan hơn, trung thực hơn.
Sự lơ là, chưa làm tròn trách nhiệm của giới sử học trong nước, ngay trong vấn đề chủ quyền quốc gia chính là vấn đề cần phải lên tiếng. Bởi lẽ, nó cho thấy chính sách “đầu quân nhà nước” của giới học giả, nhất là giới sử học đã khiến cho các vấn đề về mặt lịch sử bị chi phối nặng nề bởi chính trị, định hướng và đặt hàng dẫn đến sự “trì trệ trong tụt hậu” về mặt nhận thức, tư duy. Các tác phẩm thiếu hẳn sự công bằng, minh bạch, và khách quan của một bộ môn khoa học. Do đó, có thời điểm, không có bất kỳ một cuốn sách nào ám chỉ đến chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa (Biển Đông) vì lý do nhạy cảm, nhưng sau năm 2007, sách về chủ đề đó lại tràn ngập trên các giá sách, nhưng nó lại sự sao chép về mặt nội dung, và hầu hết là do nhà nước “đặt hàng”.
Các tác phẩm đặt hàng vốn định chế bằng tư tưởng và chính trị đã dẫn đến việc thiếu hẳn sự khách quan về mặt sự kiện “như nó đã tồn tại trên thực tế” (Wiees eigentlich ge wesen – nhà sử học Đức L. V. Ranke) và hệ thống quy tắc khai thác sự khách quan trong quá trình nghiên cứu lịch sử bởi “Lịch sử được tạo ra từ các tài liệu” (L’histore se fait avec des documents – Langlois và Seignobos).Trong diễn từ tại lễ trao giải Phan Châu Trinh, nhà nghiên cứu độc lập Phạm Hoàng Quân thừa nhận rằng: “Lịch sử học thuật sử học Việt Nam thật sự đã để lại nhiều khiếm khuyết, đã để xảy ra tình trạng thiếu hụt kiến thức nền trầm trọng đến mức báo động, lỡ lầm này buộc những người nghiên cứu sử phải nhận trách nhiệm. Trách nhiệm này là trách nhiệm đối với học thuật. Vì rõ ràng không thể lấy lý do bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng để bào chữa tất cả những khuyết điểm ấy, bởi trong đó rất nhiều vấn đề thuần khoa học.”
Cần nhấn mạnh rằng, cuộc chiến đòi hỏi chủ quyền Biển Đông còn là một cuộc chiến dài. Nó không chỉ là cuộc chiến trên mặt trận tuyên truyền, quân sự, là đối ngoại, mà còn là cuộc chiến về mặt học thuật – nghiên cứu, bởi học thuật – nghiên cứu sẽ tạo cơ sở đấu tranh pháp lý dễ dàng hơn cho mọi mặt trận khác trên thực tế.
Diễn từ của nhà nghiên cứu độc lập Phạm Hoàng Quân: Tôi được sinh ra trong một gia đình không có truyền thống nghiên cứu, bản thân lại không được may mắn học hành chính quy; phương pháp nghiên cứu, các ngành khoa học liên quan và chữ Hán đều mày mò tự học. Ước nguyện của tôi lúc vào đời lại thiên về bộ môn mỹ thuật, một dịp tình cờ, tôi nhận viết một khảo cứu về lịch sử hội họa và thư pháp của Hoa kiều ở Sài Gòn – Chợ Lớn, những tưởng vì sự yêu thích nhất thời viết lách cho vui, không ngờ đó là điểm khởi đầu để tôi gắn với nghiệp nghiên cứu cho đến nay.
Có lẽ một phần do cá tính, một phần do ảnh hưởng bởi đặc thù của bộ môn mỹ thuật, tôi đã chọn nghiên cứu độc lập làm hướng đi cho mình. Nhân đây tôi xin chia sẻ với quý vị đôi điều về những thuận lợi và trở ngại của một người nghiên cứu đơn độc.
Có ba điều rất hay. Đầu tiên là tôi không phải dự các buổi họp, không phải giao tiếp lễ lạt, nghĩa là dành được hết thì giờ cho việc đọc sách, giữ được mạch suy nghĩ không bị gián đoạn. Kế đến là luôn được làm việc trong trạng thái không bị áp lực, không bị khống chế bởi thời gian, tôi được chủ động điều độ thời gian trong việc làm của mình. Điều hay thứ ba là tôi được chọn lĩnh vực hoặc đề tài mà mình thích nhất, và trong đề tài ấy, tôi lại được tự xác định việc nào cần phải làm trước. Ba điều đơn giản vậy thôi nhưng tôi cảm thấy thật là hạnh phúc khi giữ được chúng.
Trình độ nghiên cứu lịch sử nói chung hoặc nghiên cứu chuyên sâu các đề tài lịch sử liên quan đến biển Đông nói riêng, chúng ta còn thua khá xa các nước, mà trong đó đáng ngại đáng lo nhất là chưa theo kịp trình độ của người Trung Quốc.
Nhưng bên cạnh đó, nghiên cứu độc lập phải đương đầu với không ít khó khăn. Thứ nhất là chuyện giải quyết nhu cầu cuộc sống cơ bản, giải quyết được vấn đề này thì kế đến là tài liệu sách vở, tư liệu không phong phú dồi dào thì kiến thức hạn hẹp, làm sao nghiên cứu sâu. Mua sách thì tốn kém vô biên, hoàn cảnh của tôi nhiều lúc khát sách tợ như doanh nghiệp khát vốn, tuy nhiên lần hồi tích góp, bè bạn yểm trợ và cộng thêm sự hào phóng của nhiều thư viện điện tử quốc tế, vụ này cũng tạm ổn. Một trở ngại khác lớn hơn là việc tìm tài liệu ở thư viện công, nước ta trước giờ nói chung khắt khe đối với những người không thuộc cơ quan nghiên cứu công, nên đã một thời gian dài tôi không được tham khảo nguồn này, gần đây tuy có được vài ngoại lệ, nhưng tiếc là những ngoại lệ này đến chậm. Những trở ngại ấy tuy không thể làm nản lòng, nhưng có điều đáng tiếc là một số công trình phải chịu mất nhiều thời gian hơn dự tính.
Từ hoàn cảnh của mình, tôi thấy rằng dù cá nhân hay tập thể, muốn có thành tựu nghiên cứu tốt phải hội đủ ba yếu tố là: tinh thần khoa học, năng lực nghiên cứu và sách vở tài liệu, hay nói rõ hơn, sách cùng với tài liệu là vốn liếng cơ bản, năng lực là tay nghề là trình độ, và tinh thần khách quan khoa học là không thiên về cảm tính hoặc bị chi phối bởi tinh thần dân tộc. Chẳng hạn, trong lúc nghiên cứu về lịch sử biển Đông, tôi tìm hiểu, kê cứu, hệ thống và đối chiếu so sánh nguồn sử liệu Trung Hoa chỉ vì muốn hiểu biết cặn kẽ và tường tận những ghi chép trong sử liệu thực. Lúc đọc hiểu tư liệu cũng như lúc phân tích chuỗi sự kiện, tôi không nghĩ mình là người dân của một quốc gia nào, lúc này chỉ có tính khách quan của khoa học dẫn dắt.
Điều băn khoăn khó nói mà tôi cũng muốn chia sẻ là khi nhìn kỹ lại hoạt động học thuật sử học trong bối cảnh hiện nay, trình độ nghiên cứu lịch sử nói chung hoặc nghiên cứu chuyên sâu các đề tài lịch sử liên quan đến biển Đông nói riêng, chúng ta còn thua khá xa các nước, mà trong đó đáng ngại đáng lo nhất là chưa theo kịp trình độ của người Trung Quốc.
Mấy mươi năm qua, nền sử học nước ta đã để quá nhiều khoảng trống trong nghiên cứu cơ bản, riêng ở lĩnh vực nghiên cứu biển Đông, giới sử học trong nước hầu như chưa làm tròn trách nhiệm ở nhiều mặt, chỉ lướt qua công việc dịch thuật, mà sản phẩm của nó là nguồn căn cứ thiết yếu trong nghiên cứu đối sánh, đã thấy còn quá nhiều điểm đáng lo ngại.
Ở Phnom Penh hiện nay, trong nhà sách ngoại văn tại Số 1 đường Norodom, sách nghiên cứu sử nổi bật trong nhiều loại sách nghiên cứu khác, nhẩm tính số lượng nhiều hơn ở Sài Gòn gấp bảy hoặc tám lần…
Lịch sử học thuật sử học Việt Nam thật sự đã để lại nhiều khiếm khuyết, đã để xảy ra tình trạng thiếu hụt kiến thức nền trầm trọng đến mức báo động, lỡ lầm này buộc những người nghiên cứu sử phải nhận trách nhiệm. Trách nhiệm này là trách nhiệm đối với học thuật. Vì rõ ràng không thể lấy lý do bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng để bào chữa tất cả những khuyết điểm ấy, bởi trong đó rất nhiều vấn đề thuần khoa học. Chừng nào mỗi người tâm huyết cùng nỗ lực chung tay khắc phục khiếm khuyết của quá khứ, thì nền sử học mới có thể lấy lại thăng bằng, chừng nào người nghiên cứu sử – bất kể công hay tư – ngoài sự miệt mài dốc sức còn nghĩ thêm một điều lấy cạnh tranh học thuật với bên ngoài làm thú vui, thì lúc ấy học thuật sử học mới có đà phấn phát.
Vấn đề nghiên cứu lịch sử biển Đông nói trên thật ra chỉ là một mảng nhỏ trong hoạt động học thuật sử học, nhưng nó cũng phản ánh tình hình chung. Nhìn bao quát, sự thiếu hụt kiến thức bên ngoài đã dẫn đến tình trạng giới sử học cứ mãi nói chuyện trong nhà. Trong khi ở Trung Quốc hiện nay, học giới đã tiến đến hình thành nhóm chuyên gia “dịch bình”, quy tụ những người vừa có nghiệp vụ nghiên cứu vừa rất giỏi ngoại ngữ, chuyên lo chuyện đọc và phê bình riêng các bản dịch sách nghiên cứu sau xuất bản, họ muốn những công trình nghiên cứu tầm cỡ bên ngoài phải đến tay học giới trong nước bằng một bản dịch thật chuẩn xác thật hoàn hảo. Ở Phnom Penh hiện nay, trong nhà sách ngoại văn tại Số 1 đường Norodom, sách nghiên cứu sử nổi bật trong nhiều loại sách nghiên cứu khác, nhẩm tính số lượng nhiều hơn ở Sài Gòn gấp bảy hoặc tám lần…
Nhà nghiên cứu độc lập Phạm Hoàng Quân và tác phẩm của ông về biển Đông |