Khánh Hòa
(VNTB) – Nợ xấu đang như cục máu đông đe dọa tắc nghẽn bất kỳ lúc nào dòng chảy của thị trường tài chính.
Tỷ lệ nợ xấu sơ bộ quý II/2021 là 3,66%, bao gồm 1,93% nợ xấu cũ tại Công ty Quản lý Tài sản của các Tổ chức Tín dụng Việt Nam (VAMC), và 1,73% nợ xấu trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ này giảm nhẹ từ 3,81% trong năm 2020, chủ yếu do tăng trưởng cho vay trong bối cảnh chính sách tiền tệ nới lỏng, chứ không phải do quy mô nợ xấu giảm.
Ngoài ra, với chính sách giãn thời gian trả nợ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục theo dõi các khoản vay được tái cơ cấu và nợ xấu một cách chặt chẽ.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, thì vào tháng 06-2021, các khoản vay được tái cơ cấu chiếm khoảng 3,3% tổng dư nợ cho vay trên sổ sách. Một số khoản vay được tái cơ cấu có thể đã trở thành nợ xấu nếu không có các biện pháp giãn thời gian trả nợ.
Ngân hàng Nhà nước ước tính tỷ lệ nợ xấu điều chỉnh lẽ ra phải là 7,21% trong quý II-2021 nếu tính cả nợ xấu tiềm năng từ các khoản vay đã được tái cơ cấu.
Tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa công bố số liệu chính thức về nợ xấu toàn hệ thống với mức độ chi tiết đầy đủ kể từ tháng 10-2020, làm dấy lên quan ngại rằng có thể có khác biệt lớn trong cách thức tính toán và báo cáo.
Theo một báo cáo tháng 1-2022 của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB), thì vốn dự phòng mỏng và tỷ lệ bù đắp dự phòng khác nhau giữa các ngân hàng ở Việt Nam được hiểu là một số ngân hàng có thể không đủ khả năng duy trì nợ xấu ở mức cao hơn đáng kể.
Trong số các ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính, dự trữ tổn thất vốn vay của các ngân hàng có sự chênh lệch đáng kể, dao động từ 31% đến 243% giá trị nợ xấu.
Hơn nữa, trích lập dự phòng bổ sung do tăng nợ xấu tăng sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và vốn của ngân hàng. Theo WB, đáng tiếc là các ngân hàng ở Việt Nam có vốn dự phòng ở mức thấp, sau khi xét đến tỷ lệ an toàn vốn chỉ khoảng 11,3% (quý I, 2021) so với 16% đến 24% tại các quốc gia ASEAN+5.
Do đó – theo tham vấn của WB, việc tái vốn hóa nên được xem xét nhằm củng cố bảng cân đối kế toán của các ngân hàng, và cho phép các ngân hàng đóng vai trò kênh dẫn vốn cho phục hồi kinh tế.
Trong 11 tháng đầu năm 2021, Việt Nam thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, làm gia tăng tác động của đợt giãn cách xã hội trong quý III đến nền kinh tế. Và ở nửa đầu năm, các cấp có thẩm quyền duy trì bội thu ngân sách ở mức nhỏ, giảm chi tiêu và đẩy mạnh thu thuế trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt với tốc độ 5,6%, chủ yếu nhờ đóng góp của khu vực tư nhân, trong khi đóng góp của xuất khẩu ròng giảm xuống.
Tính chung 11 tháng đầu năm 2021, ngân sách nhà nước ghi nhận bội thu lên đến 120,3 ngàn tỷ VND (5,2 tỷ USD). Các cấp có thẩm quyền công bố tổng thu ngân sách trong 11 tháng đầu năm vượt dự toán năm 2021 khoảng 3,4%.
Số thu tăng mạnh phản ánh kết quả thu tốt trong nửa đầu năm 2021, mặc dù thu ngân sách quý III giảm nhẹ do giãn cách xã hội. Tổng chi ngân sách ước giảm 7,4%. Thực hiện chi ngân sách một cách dè dặt – nhất là chi thường xuyên – có lẽ phần nào do sự cứng nhắc trong quy trình ngân sách, không cho phép tái phân bổ nguồn lực nhanh chóng trong thời gian xảy ra khủng hoảng.
“Nếu tính cả dư nợ của khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ nợ xấu hiện khoảng 7,31%”, ông Đào Minh Tú – Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết.
Do đó, ông Đào Minh Tú nói rằng sẽ đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao để duy trì tỉ lệ nợ xấu ở mức an toàn dưới 3%.
1 comment
Chữ “xấu” đã hoàn toàn tuyệt chủng trong tiếng Việt . Bây giờ chỉ còn “tốt”, “tốt ít” & “tốt nhiều” thui . Nên gọi nợ này là “tốt ít”.