Việt Nam Thời Báo

Nền công vụ “sao chép”

Nguyễn Cao


(VNTB) – Công vụ là một loại hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước (quyền lực công). Nói đến công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức thực hiện  quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội.

Về mặt pháp lý, trách nhiệm thường được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ. Do đó, công vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.

Theo cách hiểu bài bản của pháp lý như vậy thì có thể nói ở Việt Nam lâu nay “công vụ” đa phần chỉ được “sao chép”.
Án lệ và tư duy độc lập của thẩm phán

Theo nhiều chuyên gia luật học, án lệ là đường lối áp dụng luật pháp của các tòa án về một vấn đề pháp lý  đã trở thành tiền lệ để các thẩm phán theo đó xét xử trong những trường hợp tương tự về sau.

Nói nôm na, xử theo án lệ là việc tòa cấp dưới vận dụng các phán quyết có từ trước của tòa cấp trên để đưa ra một phán quyết mới tương tự trong một vụ việc tương tự.

Như vậy dù có ban hành bao nhiêu bộ luật đi nữa thì cũng không thể phủ khắp được diễn biến sinh động của xã hội. Hơn nữa, một điều luật có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Án lệ giúp chúng ta hiểu thống nhất và dự đoán trước được kết quả xét xử trong vụ tương tự, đồng thời hạn chế được việc kháng cáo, khiếu nại giám đốc thẩm của đương sự.

Tuy nhiên để làm được điều mà… cả thế giới đã làm từ trăm năm nay là áp dụng án lệ thì tư duy xét xử của thẩm phán các cấp của Việt Nam phải thay đổi, thậm chí cách viết bản án cũng phải khác. Bản án không đơn thuần chỉ là chép lại nội dung cáo trạng hay đơn kiện của đương sự, mà thẩm phán phải có tư duy tóm gọn phần nội dung lại. Trên cơ sở đó, thẩm phán phải biết lập luận về những vấn đề pháp lý cần rút ra, đồng thời khái quát lại là từ nội dung này thì phải áp dụng nguyên tắc gì để giải quyết.

Án lệ… ngầm

Pháp luật Việt Nam hiện hành không công nhận việc xét xử theo án lệ. Tuy nhiên, nhiều người nhận xét án lệ vẫn đang tồn tại ngầm dưới một số hình thức.

Đầu tiên, phổ biến nhất là những văn bản tổng kết hướng dẫn nghiệp vụ xét xử hằng năm của Tòa án Nhân dân Tối cao để tạm gỡ các vướng mắc trong công tác xét xử của cấp dưới. Văn bản này có thể là thông tư liên tịch của Tòa án Nhân dân Tối cao với các bộ, ngành liên quan, hay nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao…

Thứ hai là việc chọn lọc xuất bản một số quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao phục vụ cho xét xử, nghiên cứu khoa học và cho đông đảo người dân biết, vận dụng hay tham khảo. Đối với loại này thì phải chọn lọc các bản án có tính chất hướng dẫn, nhất là về đường lối xét xử.

Thứ ba là việc các cơ quan tố tụng trung ương tổng hợp các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm vào chung một quyển để xuất bản định kỳ hoặc hằng năm. Thứ tư là các cuốn sách, các bài phân tích, bình luận về sự việc, chứng cứ, yếu tố pháp lý trong các bản án.
Quyền tư pháp của tòa

Tháng 4-2010, Tòa án Nhân dân Tối cao đã cho ra mắt cổng thông tin điện tử (http://www.toaan.gov.vn) để công bố các quyết định giám đốc thẩm nhằm mục đích công khai bản án theo tinh thần cải cách tư pháp. Và “án lệ” được hiểu là những quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao và các tòa chuyên trách của Tòa án Nhân dân Tối cao.

Như vậy, về nguyên tắc, án lệ phải là bản án chứa đựng sự giải thích, lập luận cho một hoặc một số văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề pháp lý chưa được hướng dẫn hoặc còn chung chung, thiếu cụ thể. Án lệ cũng là bản án được thẩm phán viện dẫn làm căn cứ trong phần lập luận, quyết định của bản án mà mình xét xử. Án lệ còn là quyết định giám đốc thẩm sau cùng của Tòa án Nhân dân Tối cao về vấn đề pháp lý đó, được các tòa án khác vận dụng giải quyết vụ việc có nội dung tương tự.

Nói cách khác, vai trò và dấu ấn của cụ thể từng cá nhân thẩm phán trong vụ án xét xử là rất quan trọng. Tuy nhiên ở Việt Nam thì nay xử thế này, mai xử thế khác rồi nói đó là “án lệ” sẽ khó thuyết phục.

“Nền tảng của án lệ phải là những bản án, quyết định của các tòa án cấp dưới. Việc bãi bỏ một án lệ nào đó cũng chính là thay đổi từ cấp xét xử dưới. Chẳng hạn, cùng vụ việc tương tự nhưng thẩm phán cấp tỉnh lại quyết định khác với một án lệ có sẵn và thể hiện sự đúng đắn. Khi đó Tòa án Nhân dân Tối cao sẽ xem xét và nếu chấp nhận lập luận cũng như tính chính xác của bản án mới thì nó đương nhiên trở thành án lệ mới”. Ông Ngô Cường, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Tòa án Nhân dân Tối cao, cho biết như vậy trong một hội thảo quốc tế về vấn đề án lệ vừa tổ chức tại TP.HCM.

Án lệ là nguồn luật độc lập

Năm 1921, khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, án lệ cũng theo chân người Pháp vào và xuất hiện tại các phiên xử của tòa án Việt Nam.
Miền Nam trước năm 1975, Bộ Tư pháp của Việt Nam Cộng Hòa đã xuất bản án lệ theo định kỳ ba tháng. Ấn phẩm đăng tải những trích dẫn về quan điểm hay định hướng xét xử trong các bản án của Tối cao pháp viện, Tòa hành chính, Tòa thượng thẩm… Những bản án này là căn cứ pháp lý để xét xử cho những tranh chấp tương tự về sau.

Nói cách khác, án lệ được coi là một nguồn luật độc lập bên cạnh luật thành văn, các quy ước và các điều ước quốc tế. Đặc biệt, khi trong mối quan hệ giữa các nhà lập pháp và tòa án có xung đột về vai trò và trách nhiệm mỗi bên thì án lệ được coi là nguồn luật độc lập để giải quyết.
Như vậy, dù còn có những ý kiến khác nhau nhưng án lệ sẽ tạo ra cơ hội cho tòa án có quyền tư pháp cao hơn và tạo ra quyền bình đẳng cho các bên đương sự.
Cái khó “cố hữu” của Việt Nam

Án lệ phải là bản án chứa đựng sự giải thích, lập luận cho một hoặc một số văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề pháp lý chưa được hướng dẫn hoặc còn chung chung, thiếu cụ thể. Án lệ cũng là bản án được thẩm phán viện dẫn làm căn cứ trong phần lập luận, quyết định của bản án mà mình xét xử.

Ở các nước, chức năng giải thích pháp luật được hiểu là giải thích theo đúng nghĩa đen của văn bản pháp luật đó. Nhưng ở Việt Nam, chức năng giải thích này phức tạp hơn nhiều vì ngoài các bộ luật, luật thì còn có nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật như nghị định, thông tư liên tịch.

Việc có nhiều loại văn bản hướng dẫn như vậy có khi gây bối rối cho người áp dụng vì không ít trường hợp chính bản thân văn bản hướng dẫn cũng chưa rõ và cần phải giải thích. Chưa kể nếu các văn bản dưới luật hướng dẫn không khớp tinh thần của luật thì sẽ khó áp dụng, gây cản trở cho quá trình áp dụng án lệ.

Tin bài liên quan:

Dậy sóng Hồng Kông: Báo chí nhà nước bình luận gì?

Phan Thanh Hung

Giảm biên chế: Chiêu thức mới để trị những ai dám “cãi Đảng”?

Phan Thanh Hung

Lá phiếu tín nhiệm: Đại biểu Quốc hội sao ông dốt thế?

Phan Thanh Hung

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Việt Nam Thời Báo