Mặc dù bề ngoài đảng và chính phủ vẫn giữ trạng thái tự tin tuyệt đối vào chiến thắng và ngày thống nhất đến gần, nhưng trong bụng không chắc chắn. Họ cũng có những rắc rối về cung ứng và hậu cần bởi vì Liên Xô và Trung Quốc cũng bớt viện trợ sau Hiệp định Paris. Giống như miền Nam, họ lo lắng về độ tin cậy và động cơ của những đồng minh. George J Veith viết trong Tháng Tư đen tối, lịch sử quân sự của ông trong năm cuối cùng của cuộc chiến, Hà Nội cảm thấy rằng nó chỉ có “một cửa sổ nhỏ của cơ hội để chiến thắng”.
Kế hoạch là một chiến dịch hai-năm có thể mang lại chiến thắng vào năm 1976. Nhưng chiến dịch mở màn ở vùng cao nguyên trung phần đã thành công đến mức họ làm luôn trong năm 1975. Chỉ trong vòng hơn hai tháng. Những lỗi lầm của Thiệu và một vài tướng lãnh của ông đã đưa tình thế đến khốn cùng. Thế nhưng nguyên nhân thiết yếu của sự bại trận quá sớm này phải kể đến sự thiếu hụt nguồn cung ứng và vũ khí hạng nặng. Bắc Việt đang tiến gần đến Sài Gòn, ở cao nguyên trung phần, Huế, Đà Nẵng và nơi khác đang diễn ra những màn rùng rợn của hoảng loạn, hoang mang, vô trật tự, không tuân lệnh, và đảo ngũ, nhưng cũng rất khó cho những trận đánh hiểm hóc với hành động của chủ nghĩa anh hùng cảm tử. Nhưng Nam Việt Nam – “một con rối”, một quốc gia thực sự, hoặc tất cả những gì nó đã là – đã biến mất trong làn khói lửa chiến tranh. Thế giới nghẹn ngào.
Gấp cờ lại, một quốc gia biến mất
Những phóng viên quyết định ở lại Sài Gòn phần lớn là người Pháp, Nhật, vài người Anh và một hai người Mỹ giả vờ là người Canada. Chúng tôi tường thuật về một cuộc chiến, không phải không có nguy hiểm, nhưng cảm thấy khá dễ dàng. Chúng tôi được đưa tới những máy bay và trực thăng năng động của Mỹ, cấp tiền, có nơi ăn chốn ở và được bảo vệ bởi Mỹ hoặc những người lính miền Nam Việt Nam. Bạn có thể ở tận cùng chiến tuyến nơi cực bắc, sát vùng được gọi là Khu phi quân sự một cách mỉa mai, vào buổi sáng, rồi trở laị Sài Gòn, tắm rửa ăn uống vào đầu buổi tối. Giờ đây bất thình lình, chúng tôi trở nên bơ vơ chỉ trong khoảnh khắc. Bảo vệ mạng sống của chúng tôi là hệ thống không lực Mỹ, lính bảo vệ, những nhà phân tích, tùy viên quân sự sứ quán Úc giờ đây biến mất. Nhiều đường dây liên lạc với người Việt cũng đã mất. Những người trợ lý, lái xe, và phiên dịch (có vài người té ra là gián điệp cộng sản vẫn còn đó nhưng giờ đây họ đang trên tận chín tần mây, một cách tự nhiên).
Bắc Việt Nam có vài sỹ quan nói tiếng Anh và Pháp giỏi. Họ giúp đỡ, nhưng rất hiếm. Có một dịp, ngay sau lúc tiếp quản thành phố, một đơn vị làm phim của quân đội Bắc Việt lao vào văn phòng của CBS và ra lệnh rằng toàn bộ những thước phim quay trận đánh cuối cùng của cuộc chiến tại Cầu Mới, cửa ngõ thành phố, phải giao nộp ngay. Họ đẫm mồ hôi và rất nóng giận – dường như họ đã đến qúa trễ để quay trận đánh này. Bởi thế, họ muốn chiếm đoạt lại những gì mà cả đoàn phóng viên truyền hình Mỹ đã có được. Tôi chứng kiến cảnh đối đầu và phải kêu cứu đến viên sỹ quan cấp tá Bắc Việt mà chúng tôi đã từng gặp ông trước đó. Ông tới, giải tỏa được tình huống và ra lệnh cho những người đồng chí phải rời đi. Người chánh văn phòng mừng quá, mời ông một ly nước. Ông nhã nhặn từ chối: “Để lần sau, chúng ta sẽ còn có nhiều dịp vui”, với nụ cười gượng. Không ngạc nhiên, chúng tôi đã không bao giờ có.
Bị bỏ lại với những thiết bị cũ kỹ rẻ tiền, chúng tôi thoạt tiên không thể gửi bài, bởi vì bưu điện đã đóng cửa, những đường liên lạc điện thoại viễn liên đã cắt. Khi có thể, chúng tôi gởi bài viết về những ngày cuối cùng mà chúng tôi đã bị kẹt lại. Sau đó, chúng tôi có thể làm gì? Chúng tôi không thể làm những gì như đã làm trong quá khứ. Trong đó, chúng tôi viết những bài phê bình chính sách của Mỹ và chính phủ Nam Việt Nam. Giờ đây tất cả đã biến mất. Những bài phê bình của chúng tôi trở nên vô nghĩa. Vài người chúng tôi đến thăm viếng vài địa điểm đã từng rất quan trọng rồi viết “trước đây và bây giờ”. Một nhóm chúng tôi lái xe dọc quốc lộ 13 tới An Lộc, một thị trấn ở bắc Sài Gòn, nơi diễn ra cuộc vây hãm cam go trong chiến dịch 1972. Chúng tôi băng qua một cảnh tượng rất lạ, nhìn giống như nhiều đại đội giầy quân sự xếp hàng ngay ngắn phủ mặt đường, tựa như chủ nhân của chúng bỗng biến lên thiên đàng. Quân phục của quân đội Nam Việt Nam nằm tung tóe dọc hai bên vệ đường. Có những cảnh tương tư ở nơi khác nữa. Lời giải thích là quân đội Bắc Việt đã ra lệnh đơn vị đầu hàng phải lột bỏ hết quân phục.
Sự châm biếm của những cảnh trông thấy là quá rõ ràng. An Lộc từng là một chiến thắng của Nam Việt, chiến đấu ngoan cường bằng lực lượng dù và biệt động, cùng với sức mạnh của không quân Mỹ, tất cả B-52 có mặt trong vùng đông nam Á được huy động để dội bom vào Bắc quân. Chúng tôi ở đây, trong quanh cảnh, đưa tin về quá khứ, bởi hiện tại quả là kinh khủng. Chúng tôi uống một ly nước lạnh gần một trạm quân sự đã bỏ hoang, và tìm xem nơi nào từng là văn phòng của cố vấn Mỹ, nhưng không thấy, qua những căn hộ, bờ bụi ngoại ô rồi về lại Sài Gòn. Trên đường đi An Lộc, chúng tôi đi qua đại sứ quán Vương quốc Anh, tôi nhận ra người lính bảo vệ, đã lấy quốc kỳ trên nóc nhà xuống, căng ra làm mái che nắng. Nghẹt thở và ngạc nhiên bởi một một cơn tức giận bất thường, tôi bước ra khỏi xe, bước đến thẳng trước mặt họ và đề nghị treo lại lá vào vị trí cũ. Nghĩ tôi là người Liên Xô hay Đông Đức và tưởng tôi cũng có chút quyền lực, họ gấp lá cờ lại.
“Tất cả đó là gì?” tôi tự hỏi. Những người lính kia không có ý sỉ nhục ai. Thực ra, nó cũng chỉ là mảnh vải. Nhưng sự thực, tất cả chúng tôi, ở một mức độ nào đó, vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc chiến xưa, vẫn còn thấm đẫm với tư tưởng quyền uy tây phương mà nó thường dẫn tới những cuộc xung khắc đầy kịch tính và dữ dội. Bởi vậy, thậm chí vài người trong chúng tôi đã từng ủng hộ cho cuộc chiến. Trước lúc thành phố này sụp đổ, Phillip Caputo, một nhà báo Mỹ người đã từng là một sỹ quan hải quân chiến đấu tại Việt Nam đã viết một cuốn sách về kinh nghiệm của ông, tự hỏi cái gì đã xảy ra, giống như một đạo quân lê dương của những hoàng đế La Mã. Ảnh hưởng phương tây trên thế giới, trong biểu tượng cuối cùng của nước Mỹ, đang đến hồi kết thúc chăng? Điều gì đó đã bị xé bỏ và điều gì khác – cái điều không phải “của chúng ta” – sẽ tới thay chỗ của nó. Người Việt, Bắc hay Nam, đang trải qua khoảng khắc đặc biệt trong lịch sử của họ, còn chúng tôi đang ngồi loanh quanh, trích dẫn lòng vòng Edward Gibbon.
Học tập, cải tạo và hòa giải dân tộc
Tất nhiên, chúng tôi đã cố gắng tường thuật lại những gì đang xảy ra ở Việt Nam mới. Có đôi thứ hiển hiện rất rõ ràng. Tại mọi khách sạn mà chúng tôi ở, tất cả nhân viên bị triệu tập tới “học tâp” duới nhiều dạng, nhiều kiểu khác nhau. Học tập – như nó được gọi, đã đụng chạm đến hết thảy mọi người. Cựu sỹ quan đã bị gọi, từng cấp, từng cấp một. Ít nhất, trong một khoảng ngắn, có một quốc gia riêng biệt của miền Nam không? Chính phủ cách mạng lâm thời đóng vai trò gì, hay nó chỉ là một dạng đặc biệt của luận điệu tuyên truyền trong chiến tranh? Không quá lâu, và rất nhỏ là câu trả lời. Thời gian của chúng tôi quá ngắn, và nhà cầm quyền mới quá mờ ám trong công việc của họ đến nỗi chúng tôi chỉ có những ý niệm lờ mờ về những gì đang xảy ra.
![]() |
Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh, 1976. Hình: Marc Riboud |
Những nhà báo chúng tôi không phải là những tù nhân, cũng không phải là điệp viên. Vậy mà chúng tôi không được tự quyết định ở laị hay phải ra khỏi Việt Nam. “Họ” quyết định điều này. Chúng tôi ca ngợi họ và những nguyên tắc của họ. Chúng tôi đã nghĩ gì về cuộc cách mạnh trong sạch của họ, nhưng thái độ sơ cứng, máy móc của họ đã làm chúng tôi hụt hẫng. Dường như đã loại ra mọi khả năng hòa giải dân tộc, thậm chí một sự thương lượng hẹp. Phóng viên người Ý, Tiziano Terzani đã viết trong cuốn sách Giải Phóng! (Liberation!) của ông. Ông cảm thấy cả hai “một lời ca ngợi vĩ đại và một nỗi sợ tinh tế” rằng cuộc cách mạng này rất gần với “những ranh giới của vô nhân đạo”.
Một phần lớn của nhóm nhỏ phóng viên Anh tạm trú trong một villa rộng của nhà băng Anh. Nhà băng vẫn giữ người đại diện là một công dân Ý. Ông vui vẻ để chúng tôi mướn. Ông nghĩ rằng sự hiện diện của chúng tôi có thể ngăn cản được những cuộc sách nhiễu, cùng với một con chó lớn, bản tính rất tốt, thân mật bên người như bao nhiêu con chó khác. Vào một buổi tối, lính tuần tra miền Bắc tới, hỏi vài câu lịch sự về tại sao chúng tôi có mặt ở đây, nhưng mắt thì nhìn chằm chằm vào con chó. Cuối cùng hắn xoa bụng bảo “thịt thì ngon lắm”. “Quân khốn kiếp muốn ăn thịt con chó của chúng ta,” chúng tôi giận dữ nói với nhau sau khi hắn đi ra. Một thoáng sau đó, chúng tôi cùng với khoảng 100 phóng viên ở lại Sài Gòn, đã bị tống cổ ra khỏi Việt Nam một cách khá lịch sự, dồn hết vào chiếc máy bay chở khách Liên Xô bay thẳng qua Vientiane, Lào. Trước lúc ra đi, chúng tôi đã cố gắng thu xếp để bảo vệ con chó của chúng tôi, nhưng chúng tôi không mấy lạc quan.
Trở lại Washington, Gloria Emerson của tờ New York Times, có lẽ là một người phản chiến hăng hái nhất trong tất cả những phóng viên Mỹ, quay lại cảnh phấn khởi, tâng bốc ồn ào, hút cigar và tự chúc mừng chiến thắng trong chiến dịch Mayaguez. Tỷ lệ dân chúng ủng hộ Nhà Trắng tăng đáng kể. Mayaguez là một tàu chiến Mỹ, thủy thủ đoàn đã bị bắt tại Cambodia bởi Khmer Đỏ một vài ngày sau khi ngày Sài Gòn thất thủ. Mỹ gởi một lực lượng hải quân tới cứu. Nhưng thực ra, thủy thủ đoàn của tàu Mayaguez không bị đe dọa tính mạng. Chiến dịch có vẻ như nhăng nhố, chẳng cần thiết, nhưng lại như kiêu khích đối thủ về góc độ nhân đạo vào ngày 30 tháng Tư tại Việt Nam và Pnomh Penh. Trên thực tế, nó là một công việc ngu xuẩn. Mỹ đã tổn thất rất nhiều khi đánh Khmer Đỏ, trong khi Khmer Đỏ đang chuẩn bị chống lại ông chủ mới của Nam Việt Nam. Tình báo của nó quá tồi tê, lãng phí vũ khí, và nhân mạng, nó đã che phủ đi tất cả những nhầm lẫn về cuộc chiến vừa kết thúc.
Kỳ III: VNTB – Bốn mươi năm Sài Gòn sụp đổ: kết thúc nhưng không thể khá hơn