Ngọc Lan
(VNTB) – Người lao động đình công không hề có tính toán trước mà là trạng thái cảm xúc dồn nén, đến một độ nào đó kết hợp cơ chế tập thể sẽ bộc phát.
PGS-TS Nguyễn Đức Lộc, Viện trưởng Viện nghiên cứu Đời sống xã hội (Viện SocialLife), có nhận xét, thời điểm sau Tết Nguyên đán là cơ hội để chính quyền thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ cho người lao động bền vững hơn.
Đơn cử, nhà nước có thể tận dụng đòn bẩy và có cơ chế quản lý, giám sát chính sách ưu đãi về thuế, tài chính, vay ưu đãi… cho những doanh nghiệp xây dựng các nhà lưu trú, hay cho chủ nhà trọ đảm bảo bình ổn giá thuê, xây dựng hay cải thiện không gian sống cho người lao động, không thu phí điện, nước cao hơn mức bình thường…
Bởi lẽ, các doanh nghiệp cũng như chủ nhà trọ cũng là một loại dịch vụ phúc lợi, và người lao động hoàn toàn có thể được hưởng lợi từ những chính sách đòn bẩy đó.
Vẫn theo ông Nguyễn Đức Lộc, khi nền kinh tế mở cửa từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Việt Nam với chính sách trải thảm đỏ thu hút nhà đầu tư với nhiều ưu đãi để thúc đẩy kinh tế phát triển, cải thiện đời sống dân sinh như: chính sách tiền lương giá rẻ, đầu tư qui hoạch các khu công nghiệp tập trung với các điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi tại các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung theo qui mô lớn và trọng điểm.
Chính điều này đã tạo ra sức hút lao động từ các khu vực từ nông thôn về các vùng kinh tế trọng điểm. Họ rời khỏi quê hương, bản quán để tới trú ngụ tạm bợ nơi đô thị.
“Với khoản thu nhập ít ỏi, người lao động đã phải làm việc nhiều hơn, cực nhọc hơn và nghèo nàn về thời gian hơn để mua lấy sự an sinh. Chính vì vậy, từ lâu những người lao động di cư dường như đã hình thành tập tính tự xoay sở, tự lo toan và khi những biến cố xảy ra họ cũng một lần nữa ‘trở về để tự sắp xếp chuyện gia đình’.
Khi đại dịch bùng phát, theo số liệu khảo sát của chúng tôi có tới 82% trên tổng số 850 người được hỏi cho biết kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn tài chính. Nguồn thu nhập ít ỏi của họ dường như mất trắng, trong đó nhóm chịu ảnh hưởng nhất chính là nhóm lao động tự do với 73,7% và giáo viên tư thục 73,8% là nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.
Ở khía cạnh dịch bệnh, hầu hết trong số hoàn cảnh gia đình người lao động di cư tự thân cũng trở thành nhóm dễ bị tổn thương vì dịch bệnh. Một trong những lý do là điều kiện cư trú chật hẹp.
Những lúc khó khăn cùng cực, họ cũng đã phải gắng gượng để mưu sinh, để sống cuộc đời của mình và lo toan cho người thân. Trong quan sát của chúng tôi, họ là một trong nhóm đi đầu về việc thích ứng an toàn” – .ông Nguyễn Đức Lộc diễn giải.
Từ quan sát và ghi nhận ở trên, ông Lộc cho biết thực ra số cuộc đình công trước đó bộc phát đã giảm và chuyển sang đối thoại có lý tính hơn. Người lao động đã biết sử dụng người đối thoại, người trung gian, đồng thời viện dẫn chính sách pháp luật khi đình công để đạt được thương thảo.
Tuy nhiên ông Lộc lo những nguyên nhân phức tạp trong đình công gần đây có thể đạp đổ thành quả này. Ông kiến nghị đây là giai đoạn cần phát huy vai trò trung gian của công đoàn, trước hết là dàn xếp về mặt cảm xúc để người lao động và người sử dụng lao động thấu hiểu nhau.
“Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho người lao động chịu ảnh hưởng bởi dịch, nhưng ngược lại nhiều bên sử dụng lao động vẫn đang đối xử với công nhân của mình theo kiểu cò kè bớt một thêm hai. Trong đại dịch, ai cũng đang cảm thấy bị tổn thương và một khi có người lên tiếng thì đó là tiếng nói chung của họ”, ông Lộc nói.
Viện trưởng Sociallife cho biết các nghiên cứu nhận thấy, người lao động đình công không hề có tính toán trước mà là trạng thái cảm xúc dồn nén, đến một độ nào đó kết hợp cơ chế tập thể sẽ bộc phát. Nhóm nghiên cứu của Sociallife từng phỏng vấn một cuộc đình công ở TP.HCM, nguyên do một công nhân phát hiện bữa cơm trưa có giòi.
Người đó gõ vào mâm, tự dưng cả nhà ăn náo loạn, xảy ra đình công, ngừng việc tập thể và kéo theo phản ánh nhiều chính sách bất hợp lý khác…