Dương Tử
(VNTB) – Nguyễn Huy Thiệp ngưng bút đã 10 năm qua, có lẽ tinh hoa đã phát tiết khá trọn vẹn rồi, sứ mệnh tiên phong đã trọn
***
1. Bối cảnh đầu thập niên 80, kinh tế Việt Nam rơi xuống đáy, xã hội suy đồi, văn hoá bế tắc, nhất là sáng tác văn học nghệ thuật.
Một số cây bút tiên phong nổi lên. Nhà văn cựu chiến binh Nguyễn Minh Châu với tùy bút can trường “lời ai điếu cho giai đoạn văn nghệ minh họa” và truyện ngắn “ Người đàn bà quỳ “…Vài bút ký Trần Huy Quang về thủ công nghiệp phá rào tự cứu mình nhưng bị nhà cầm quyền cản phá, phóng sự nông thôn Phùng Gia Lộc “Cái đêm hôm ấy đêm gì”. Kịch nói Lưu Quang Vũ chiếm lĩnh sân khấu… Đặc biệt truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nổi lên như một niềm kinh dị cả về nội dung ám dụ và giọng văn kỳ lạ. Một số kẻ cầm bút bảo thủ luống cuống cản phá nhưng không xiết trước nhu cầu quần chúng và trí thức. Lãnh đạo Tuyên giáo tư tưởng ngơ ngác bỏ trống, thả nổi “trận địa tư tưởng”.
Liên tục 10 năm, Nguyễn Huy Thiệp viết gần 50 truyện ngắn, dường như chất chứa xúc cảm trăm năm nay có dịp viết hết ra (chưa kể 4 vở kịch nói chưa đáp ứng yêu cầu nghệ thuật, một số tiểu luận phê bình văn nghệ với hình thức phong phú, nhưng chỉ đủ “gây sự” vì việc này không phải sở trường của nhà văn ưa kể chuyện đời và xây dựng nhân vật).
Nhà giáo dạy lịch sử trung học đủ khôn ngoan để viết văn chương bằng cảm hứng lịch sử khiến cho công chúng thích thú, giới văn học giật mình, lãnh đạo tư tưởng ngơ ngác, không xác định được đối tượng hạn chế này. Cuối thế kỷ 20, người cầm bút sáng tác biết rằng Nguyễn Huy Thiệp là cột mốc, chỉ có thể tiến vượt qua mà không thể lùi nữa.
Nguyễn Huy Thiệp ngưng bút đã 10 năm qua, có lẽ tinh hoa đã phát tiết khá trọn vẹn rồi, sứ mệnh tiên phong đã trọn. Ngày 20.3 vừa rồi, ông qua đời sau một năm vật lộn trên giường bệnh. Cái chết của “Tướng về hưu” gây rung động văn đàn và báo chí… Thái độ của giới lãnh đạo khá ngỡ ngàng và nghe ngóng dư luận. Họ cảm thấy niềm hâm mộ của quần chúng khá mạnh mẽ ngay cả trên báo chí quốc doanh, chưa kể MXH rung động mạnh hơn nữa. Và họ không bỏ lỡ dịp “tát nước theo mưa”. Báo Nhân Dân viết một bài vừa phải tưởng niệm Nguyễn Huy Thiệp, tuy có cái dở là kể công lao nhờ Đảng đổi mới nên ông Thiệp thành công (!). Hai ông TT.Phúc và phó TT. Đam gửi lẵng hoa viếng.
Giới nghiên cứu phê bình khó mà tổng kết phương thức nghệ thuật văn chương Nguyễn Huy Thiệp, mặc dù đã có những luận văn thạc sĩ, tiến sĩ và những bài nghiên cứu chuyên nghiệp rải rác về chủ đề truyện ngắn NHT.
2. Nhân làng văn Việt Nam đột nhiên xao động khi tống biệt nhà văn NHT như hiện tượng độc đáo nhất, đáng chú ý nhất, người viết góp một cách nhìn ba truyện ngắn tiêu biểu của NHT với phương pháp tạm gọi là “liên văn bản”, theo thứ tự thời gian ra đời ba truyện ngắn. “Tướng về hưu, Muối của rừng và Chảy đi sông ơi”
2.1 “TƯỚNG VỀ HƯU” kể chuyện ông thiếu tướng Thuấn trở về cuộc sống đời thường. Ông vấp ngay vào cái xã hội đang băng hoại suy đồi thu nhỏ ngay trong nhà mình, ở ngoại ô Hà Nội.
Gần kết truyện, ông tướng thất vọng, tỉnh ngộ. Chiến đấu để đạt mục tiêu gì đây ? Hậu phương của ông và đồng đội bây giờ “lầy” thế này sao ?
Ông quyết định rời bỏ gia đình, lên biên giới phía Bắc với đồng đội cũ. Sống theo quán tính. Ông chiến đấu suốt đời để đem về một gia đình và quê hương trụy lạc, mất phương hướng như vậy đó. Ai đó hưởng lợi từ cuộc chiến ? Lý tưởng xã hội chủ nghĩa bỗng nhiên rơi như chiếc lá nho, lộ ra bản chất trần trụi. Lý tưởng gì đâu !
Đứa cháu gái ông, cô bé Vy, vào tuổi dậy thì, chẳng hiểu chuyện gì, thấy ông nội chuẩn bị ba lô đi biên giới, nó chỉ thấy vui vẻ, cũng theo quán tính.
“Cái Vy hỏi :“Ông ơi, đường ra trận mùa này đẹp lắm* có phải không ông?”
Cha tôi chửi “Mẹ mày. Láo !”.
*Bài thơ “TRƯỜNG SƠN ĐÔNG-TRƯỜNG SƠN TÂY” của anh lính Phạm Tiến Duật do Hoàng Hiệp phổ nhạc, nổi tiếng nhất thời Nội chiến, coi như đại diện cho toàn bộ văn chương chiến tranh 1954-1975. Chỉ một câu chửi của ông thiếu tướng về hưu là xổ toẹt tất cả nghệ thuật “văn chương và âm nhạc chiến tranh cách mạng”.
3. “MUỐI CỦA RỪNG”
Người ta thường nói muối của biển, ông Thiệp nói ngang phè “Muối của rừng” như là kết tinh vị mặn của…rừng. Rất nhiều từ ngữ lạ lùng, nhà văn cứ tung ra thoải mái, biết đâu đó là thủ pháp đánh lạc hướng.
Tuy nhiên vào chuyện, các dấu hiệu nghệ thuật lộ dần ra.
3.1.Chán nản cuộc đời ô trọc, ông Diểu muốn vào rừng xanh.
“Ý nghĩ đi săn nảy sinh khi thằng con học ở nước ngoài gửi về biếu ông khẩu súng hai nòng”. Cho đến năm 1987, du học sinh miền Bắc chủ yếu vẫn đi học các nước XHCN, chủ yếu là Liên Xô, Trung Quốc. Ám dụ mở đầu cho thấy “Liên Xô, Trung Quốc cung cấp vũ khí cho nhân vật ông Diểu đi gây tội ác chốn rừng xanh”
Từ đây nhà văn để cho ông Diểu độc thoại, như ông già đánh cá Santiago của văn sĩ Hemingway (Ngư ông và biển cả).
Người viết trích dẫn câu chuyện đồng thời chỉ ra nội dung của những ám dụ nghệ thuật trong truyện ngắn.
Cảm nghĩ của ông Diểu: “Tất cả những trò nhố nhăng đê tiện vấp phải hàng ngày hoàn toàn có thể rũ sạch bởi một cú nhảy của con sóc nhỏ trên cành dâu da”.
Ông đi săn không phải vì thiếu thịt ăn.
“Nhà ông thiếu gì chim. Chim bồ câu nhà ông có đầy. Đến chỗ ngoặt, ông Diểu giật mình bởi một tiếng soạt trong lùm dẻ gai. Một chùm dây màu sặc sỡ tung trước mắt ông. Ông nín thở: một đôi gà rừng ton tón lao về phía trước, đầu chúi xuống, kêu quang quác. Ông Diểu rê nòng súng theo. “Bắn sẽ trượt thôi! ” Ông nghĩ bụng và ngồi bất động ở trong tư thế như vậy rất lâu. Ông muốn chờ rừng yên tĩnh lại.. Đôi gà rừng sẽ nghĩ là chưa gặp người. Như thế tốt cho chúng nó. Cũng tốt cho ông.”.
Ông Diểu vừa tìm mồi săn vừa tranh thủ thưởng thức cảnh rừng mùa xuân đầy sức sống và đẹp lạ lùng. “Ông Diểu thấy ba con khỉ cứ quấn lấy nhau: con khỉ đực, con khỉ cái và đứa con nó”.
Qua độc thoại, ta thấy ông Diểu vào Rừng nhưng vẫn mang theo những ấn tượng xấu về cái Xã Hội ông và áp đặt cho Rừng.
3.2. Đem ấn tượng xấu trong đời sống con người áp đặt vào một gia đình khỉ:
“Ý nghĩ con khỉ đực sẽ là con mồi bám lấy ông Diểu tức thì. Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng! Vị gia trưởng cộc cằn! Nhà lập pháp bẩn thỉu! Tên bạo chúa khốn nạn!”
“Ông nhìn kỹ và thấy con khỉ canh gác là con khỉ cái. Thế là thuận lợi rồi. Bởi giống cái bao giờ cũng dễ phân tâm. Đấy, thấy chưa? Đang canh gác mà đi bắt rận ở người thì còn gì nữa? Với giống cái thì thân thể mình là quan trọng nhất. Điều ấy thật giản dị và đẹp. Nhưng điều ấy lại đầy xót xa…”.
3.3. Nghĩ về giới lãnh đạo
Ông nhìn thấy bản năng con khỉ đực như một lãnh đạo xã hội, ông qui chiếu sang con người lãnh đạo chính trị với bản năng ăn trên ngồi trốc ? (thực ra ông hiểu nhầm nó: khỉ bố nếm trái cây trước để kiểm tra chứ không phải tham ô, tham nhũng)
“Con khỉ bố vắt vẻo trên cây bứt quả ném xuống dưới đất cho hai mẹ con. Trước khi ném, bao. giờ nó cũng chọn quả ngon chén trước. Hành động ấy thật là đê tiện”.
Ông Diểu bóp cò. Tiếng súng dữ dội đến nỗi đàn khỉ lặng đi dễ đến một phút. Con khỉ đực buông tay ngã nhào xuống đất nặng nề.
3.4. Ông hiểu lầm về nữ tính và thiên chức con người
“Sự hỗn loạn của cả đàn khỉ khiến cho ông Diểu sợ hãi run lên. Ông vừa làm điều ác. Chân tay ông rủn ra, giống cảm giác như người vừa mới làm xong việc nặng. Đàn khỉ thoắt biến vào rừng. Con khỉ mẹ và con khỉ con cũng chạy theo đàn. Được một đoạn, con khỉ mẹ bỗng quay trở lại. Con khỉ đực bị đạn vào vai, nó gượng dậy, nhưng lại vật xuống.
Con khỉ cái tiến đến gần con khỉ đực một cách thận trọng, nó nhìn ngó xung quanh. Sự im lặng này thật đáng ngờ. Nhưng rồi con khỉ đực cất tiếng gọi nó, tiếng gọi buồn thảm đau đớn. Nó dừng lại lắng nghe với vẻ khiếp sợ hoảng loạn.
– Chạy đi! Ông Diểu rên lên khe khẽ. Nhưng con khỉ cái tuồng như muốn liều thí mạng, nó đến gần nâng con khỉ đực nhỏm lên.
Ông Diểu tức giận giương súng. Hành động hy sinh thân mình của con khỉ cái làm ông căm ghét.
Đồ gian dối, mày chứng minh tấm lòng cao thượng hệt như một bà trưởng giả! Sự tan rã đạo đức bắt đầu từ những tấn kịch thế này, lừa ông sao được ?”
“Nó biết mình là người thì thôi hỏng việc! ”. Y như rằng, con khỉ cái vừa lén nhìn ông vừa lao đến chỗ con khỉ đực. Nó ghì lấy con khỉ đực vào lòng rất nhanh và khéo. Cả hai lăn tròn trên đất. Bây giờ thì con khỉ cái chắc chắn sẽ điên cuồng như một mụ ngốc. Nó sẽ cuồng nhiệt hy sinh bởi lòng cao thượng của nó sẽ được thiên nhiên tính điểm. Ông đã lộ mặt là tên ám sát! Dù chết nó vẫn nhe răng để cười. Bất luận thế nào ông cũng sẽ đau đớn, sẽ thao thức, thậm chí ông sẽ chết sớm hai năm nếu ông bắn nó lúc này. Tất cả chỉ vì ra khỏi chỗ nấp sớm mất hai phút.
– Thôi Diểu ơi… – ông buồn bã nghĩ, – với đôi chân thấp khớp thế này thì làm sao mày chạy nhanh bằng lòng tận tụy, thủy chung của khỉ? “
“Như trêu ngươi, hai con khỉ vừa chạy vừa dìu lấy nhau, con khỉ cái thỉnh thoảng lại huơ huơ đôi chân vòng kiềng trông vừa tức cười lại vừa đểu cáng. Ông Diểu bực mình lấy đà ném mạnh khẩu súng văng về phía trước. Ông mong muốn con vật hoảng sợ buông mồi.
3.5. Ông đặt niềm tin vào thế hệ trẻ
Khỉ con xuất hiện, cắn dây súng chạy đi. Khỉ con khôn ngoan tìm cách tước vũ khí của con người.
Từ mô đá, bỗng nhiên con khỉ con xuất hiện. Nó túm lấy dây súng của ông kéo lê trên đất (…) Nhặt đất đá ném theo lũ khỉ, ông Diểu vừa đuổi vừa la. Lũ khỉ hết sức kinh hoàng, hai con chạy về phía núi, còn con khỉ nhỏ chạy về phía vực. “Mất súng thì hỏng”. Ông Diểu nghĩ thế và đuổi theo con khỉ nhỏ. Khoảng cách rút ngắn đến mức nếu không vì mắc nền đá lởm chởm, ông lao nhoài ra là tóm ngay được khẩu súng. Việc ông Diểu dồn con khỉ nhỏ đến bờ miệng vực đưa đến hậu quả khôn lường. Giữ chặt dây súng, nó lăn xuống miệng vực không chút chần chừ. Vì ít kinh nghiệm, nó không tìm ra giải pháp nào khác trong trường hợp ấy.
Ông Diểu tái mặt, mồ hôi toát ra như tắm. Ông đứng trên miệng vực nhìn xuống rùng mình. Từ dưới sâu hun hút vang lên tiếng rú thê thảm của con khỉ nhỏ. Trong ký ức của ông chưa hề có tiếng rú nào tương tự thế này. Ông Diểu lùi lại kinh hoàng. Từ dưới miệng vực, sương mù dâng lên cuồn cuộn, trông vừa kinh dị, vừa đầy tử khí. Sương mù len vào từng chân bụi cây và xóa rất nhanh cảnh vật. Ông Diểu chạy lùi trở lại. Phải lâu lắm, có lẽ từ thời thơ ấu, ông Diểu mới lại có lần chạy như ma đuổi thế này”. Đến đây có thể thấy nhà văn đã áp dụng sáng tạo “hiện thực huyền ảo phương Đông kiểu Liêu Trai Chí Dị- Nguyễn Huy Thiệp ” (chắc vậy vì cùng năm đó Trăm năm Cô Đơn còn đang được dịch ở Việt Nam)
“ông Diểu vơ lấy một nắm cỏ Lào vò nát. Ông cho vào miệng nhai kỹ. Ông đắp nắm lá vào miệng vết thương con khỉ. Nắm lá sẽ có tác dụng cầm máu cho nó. Con khỉ co rúm người lại và nghiêng đôi mắt ươn ướt nhìn ông. Ông Diểu tránh nhìn vào đôi mắt nó.
Một lát, con khỉ rúc hẳn vào hai lòng tay ông Diểu. Miệng nó phát ra âm thanh lắp bàp nghe như tiếng của trẻ con. Ông biết nó đang van xin và tìm một sự giúp rập. Ông rất khó chịu.
– Thà mày chống cự thì tốt cho tao, – ông Diểu nhìn vào cái đầu ngoan ngoãn của con khỉ nhỏ cau mày. – Mình đâm già rồi… Nó biết người già thì dễ mủi lòng. Bây giờ tao biết lấy gì băng bó cho mày hở khỉ?”
Ông Diểu suy nghĩ. Ông đành cởi chiếc quần lót đang mặc. Ông dùng chiếc quần lót ấy để băng vết thương cho nó. Vết thương cầm máu, con khỉ không còn rên nữa.
Cứ thế trần truồng, ông Diểu vừa bế vừa đỡ con khỉ, tìm đường tụt xuống chân núi. Thoắt nhiên, đất đá từ lưng chừng núi sụt xuống rào rào như có sức mạnh nào đấy xô đẩy.
Thêm một chi tiết “hiện thực huyền ảo” nữa khi ông thấy quần áo giày mũ và đồ ăn mang theo đã bị một đống mối đùn lên ăn sạch sẽ.
“Đến chỗ lùm cây leo nấp chờ ban sáng, ông Diểu dừng lại để tìm mũ áo và nắm xôi nếp. Ở đấy đùn lên một đống mối to gần bằng cây rạ. Đống mối nhớp nháp một thứ đất mới đỏ au, trên đấy đầy những cánh mối ướt rụi. Khốn nạn, dây vào tổ mối thì những đồ vật của ông thành cám! Thở dài thất vọng, ông Diểu quay lại bế con khỉ lên”
“Có tiếng động khẽ đằng sau. Ông Diểu giật mình quay lại và nhận ra con khỉ cái. Thấy ông, nó thoắt biến vào bụi rậm. Hóa ra con khỉ cái theo ông từ khi ông ở trên núi mà ông không biết. Ông thấy là lạ. Đi được một quãng, ông Diểu quay lại thì vẫn thấy nó lẽo đẽo đằng sau. Thật khốn nạn quá! ông Diểu đặt con khỉ đực xuống đất rồi nhặt đất đá đuổi con khỉ cái. Nó kêu the thé rồi chạy biến đi. Chỉ được một lúc, ông Diểu ngó lại thì vẫn thấy nó lẵng nhẵng bám theo.
Cái bộ ba ấy cứ thế lầm lũi xuyên rừng. Con khỉ cái cũng thật kiên trì. Ông Diêu bỗng thấy bị xúc phạm ghê gớm. Tựa như ông bị theo dõi, bị đòi ăn vạ.
Bây giờ, cả con khỉ đực cũng đã nhận ra tín hiệu vẫy gọi của đồng loại nó. Nó cứ giãy giụa, nó làm cho ông khổ vô cùng. Ông Diểu mệt lả, ông không còn sức giữ con khỉ nữa. Hai tay con khỉ cào trên ngực ông tóe máu. Cuối cùng, không thể chịu nổi, ông đành tức giận ném nó xuống đất.
Con khỉ đực nằm dài trên vạt cỏ ướt. Ông Diểu buồn bã ngồi nhìn. Cách đó không xa, con khỉ cái cũng thập thò sau một gốc cây theo dõi.
Ông Diểu thấy buồn tê tái đến tận đáy lòng. Ông nhìn cả hai con khỉ và thấy cay cay sống mũi. Hóa ra ở đời, trách nhiệm đè lên lưng mỗi sinh vật quả thật nặng nề.
-“Thôi tao phóng sinh cho mày! ” – Ông Diểu ngồi yên một lát rồi bỗng đứng dậy nhổ bãi nước bọt xuống dưới chân mình. Lưỡng lự giây phút rồi ông vội vã bỏ đi. Hình như chỉ chờ có thế, con khỉ cái vọt ngay ra khỏi chỗ nấp, chạy vội đến chỗ con khỉ đực nằm.
3.6. Hình tượng “hoa tử huyền 30 năm nở một lần”.
Ông Diểu rẽ sang một lối đi khác. Ông muốn tránh gặp người. Lối này đầy những bụi gai ngáng đường nhưng hoa tử huyền nhiều không kể xiết. Ông Diểu dừng lại sững sờ. Loài hoa tử huyền cứ ba chục năm mới nở một lần. Người nào gặp hoa tử huyền sẽ gặp may mắn. Hoa này màu trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta vẫn gọi hoa này là muối của rừng. Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nước thanh bình, mùa màng phong túc.
Nhà văn hư cấu ra cái cây Hoa Tử Huyền ba chục năm mới nở một lần. Sao lại 30 năm mà không là… một con số khác ?
Người viết đã nói về liên văn bản. Việc đi săn trong rừng của ông là một cuộc chiến tranh xâm lăng rừng xanh, làm cho rừng hoà bình tan đàn xẻ nghé và muôn loài rúng động. Sắp ra khỏi rừng ông gặp “hoa tử huyền nở sau 30 năm”. Ta có thể liên tưởng đến cuộc chiến Việt Nam 1945- 1975 được không ? Sao không chứ. Nhà văn đã viết đây mà “Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nước thanh bình”.
Ra khỏi thung lũng, ông Diểu đi xuống cánh đồng. Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông nhòa vào màn mưa.
Chỉ ít ngày nữa sang tiết Lập hạ. Trời sẽ ấm dần.
(đăng lần đầu báo Văn nghệ số 38 ngày 19.9.1987, ngay sau “Tướng về hưu”).
4. TRUYỆN NGẮN “CHẢY ĐI SÔNG ƠI”
Một cậu thiếu niên sống bên bến Cốc của dòng sông quê hương, quen với chị lái đò tên Thắm và muốn theo mấy tay đánh cá mòi đêm để học nghề. Không ngờ mấy tay đán cá lưu manh lại còn mê tín, khiến cho cậu suýt chết đuối, may được chị laí đò cứu sống..
“Ở bên kia sông có ai hát một bài rất lạ, tiếng hát thật buồn.
“Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì
Rồi ngươi đãi hết
Anh hùng còn chi?”
Thủ pháp ám dụ quen thuộc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Rải rác đó đây, kèm theo huyền thoại, ma sông, ma núi, núi lở, sương mù đột ngột giăng đầy…
Có thể nói, các truyện ngắn của ông được kết hợp lại như các chương trong một thiên tiểu thuyết. Ông đã xây dựng một hệ thống các tín hiệu nghệ thuật hoàn chỉnh mang tên Nguyễn Huy Thiệp.
Có đọc liên văn bản như vậy bạn đọc mới hiểu hình tượng “hoa tử huyền ba chục năm mới nở một lần”.
Tôi chưa đọc các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu Nguyễn Huy Thiệp, đây đó ở một số đại học phía Bắc. Nếu họ không nhắc gì tới tính liên văn bản nói trên thì uổng công nghiên cứu.
Vài năm nữa, nghe tin, sách giáo khoa Văn mới sẽ có “Muối của rừng”. Có lẽ đặt vào Ngữ văn 12. Thử thách cả thầy và trò không nhỏ đâu.