Việt Nam Thời Báo

VNTB – Tỉnh Nghệ An cần thay đổi bí thư, chủ tịch

Nguyễn Đình Cung

 

(VNTB) – “Đưa bộ trưởng, thứ trưởng giỏi về làm bí thư, chủ tịch những tỉnh nghèo nhất”.

 

Ý kiến trên của cựu ủy viên Trung ương Đảng Lê Doãn Hợp được ‘đúc rút’ từ thực tiễn làm lãnh đạo bộ ngành và địa phương mà ông đã trải qua. Ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Bộ trưởng Văn hóa, Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông. Ông Lê Doãn Hợp cho rằng có thể chọn cùng lúc nhiều bộ trưởng, thứ trưởng giỏi đưa về làm bí thư, chủ tịch những tỉnh nghèo nhất, khó khăn nhất trong 5 năm.

Tuy nhiên ít ai có thể ngờ rằng đến nay, tỉnh Nghệ An tiếp tục là địa phương chỉ dáng vẻ phồn vinh bên ngoài như lớp son phấn mà thôi.

Xin trích giới thiệu ở đây bài viết của ông Nguyễn Đình Cung, cựu Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, về lớp son phấn ấy của Nghệ An.

Chốn quê nhà làng sen của lãnh tụ

Nghệ An có diện tích 16.481,4 km2, lớn nhất cả nước; dân số khoảng 3,4 triệu người, đứng thứ 3 toàn quốc. Xét về quy mô kinh tế, GRDP chiếm 1,64% GDP cả nước, đứng thứ 10 toàn quốc.

Tuy xếp thứ 10, nhưng quy mô kinh tế của Nghệ An nhỏ hơn khá nhiều so với phần lớn các địa phương thuộc top 10 nói trên. GRDP/người theo giá hiện hành năm 2020 là 43 triệu, đứng thứ 54 toàn quốc, cao hơn và bằng các tỉnh Nam Định, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Điện Biên, Lai Châu, Gia Lai.

Năm 2021, Nghệ An có gần 12.000 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm khoảng 1,4% tổng số doanh nghiệp hoạt động trên cả nước; trung bình chỉ có 3,5 doanh nghiệp/1.000 dân, chưa bằng ½ số bình quân chung cả nước. Doanh nghiệp tư nhân chiếm hơn 99%; doanh nghiệp nhà nước chỉ 0,5%; số còn lại là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Trong giai đoạn 2017-2020, tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới ở Nghệ An rất thấp, chỉ trung bình 1%, thấp một cách đáng ngạc nhiên so với bình quân chung của toàn vùng duyên hải Trung bộ là 6,8%; bình quân cả nước là 7,4%, bình quân của tỉnh láng giềng Thanh Hóa là 10%.

Trong khi đó, số rút khỏi thị trường lại rất lớn. Tỷ lệ số doanh nghiệp rút khỏi thị trường/số gia nhập thị trường là 61,3%, cao hơn bình quân chung của cả nước (46,5%) và của vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (54%).

Đóng góp bất cân xứng

Về cơ cấu ngành nghề, doanh nghiệp nông lâm ngư nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 4% (chung cả nước 2%); doanh nghiệp chế tác chế tạo chiếm 10% (khoảng 13% trong cơ cấu chung của cả nước); doanh nghiệp xây dựng chiếm 23,6%, cao hơn nhiều so với cơ cấu doanh nghiệp chung cả nước (khoảng 12,6%); doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ chiếm khoảng 29,4% (chung cả nước hơn 33%); doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lưu trú, ăn uống chiếm 3,7%, thấp hơn khá nhiều so với chung cả nước là hơn 8%; doanh nghiệp hoạt động chuyên môn, khoa học, công nghệ chiếm khoảng 10%, cao hơn bình quân chung cả nước (chỉ 5,7%).

Ngoài ra, số doanh nghiệp trong các ngành công nghệ thông tin và một số ngành mới nổi rất ít.

Doanh nghiệp tạo ra chưa đầy 200 ngàn công ăn việc làm cho người lao động, tức chỉ bằng hơn 10% lực lượng lao động toàn tỉnh. Trong số đó, doanh nghiệp có vốn nhà nước chiếm 5%, có vốn FDI khoảng 13% và còn lại là tư nhân. Nói cách khác, so với số lượng lao động toàn tỉnh, doanh nghiệp tạo được quá ít công ăn việc làm. Cứ 10 người trong độ tuổi lao động, chỉ có 1 người làm việc tại doanh nghiệp.

Quy mô vốn thấp

Về quy mô vốn, vốn sản xuất kinh doanh trung bình của mỗi doanh nghiệp khoảng hơn 30 tỷ đồng (năm 2021). Khoảng 63% tổng số vốn kinh doanh (38.3857,7 tỷ đồng) tập trung vào các doanh nghiệp ở Vinh; phần còn lại phân bố cho khoảng 6.000 doanh nghiệp trên 20 huyện thị còn lại.

Tổng doanh thu năm 2020 của các doanh nghiệp Nghệ An là 225215,4 tỷ đồng; Doanh thu trung bình mỗi doanh nghiệp là 19,5 tỷ.

Về cơ cấu theo ngành nghề, doanh nghiệp nông nghiệp chiếm 5,5% (trong số 5,7% của ngành nông lâm ngư nghiệp); công nghiệp chế tác chế tạo 26%, xây dựng 12,7%; bán buôn, bán lẻ 38%, dịch vụ ăn uống và lưu trú chỉ 0,7%. Doanh thu doanh nghiệp trong ngành điện tử, máy vi tính, công nghệ thông tin hầu như không đáng kể, chỉ khoảng 1%.

Xét về quy mô lao động, doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 73% tổng số doanh nghiệp. Doanh nghiệp từ 200 lao động trở lên chỉ chiếm 1,15%. Doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu đồng chiếm 10,7%; có vốn từ 500 triệu đến 10 tỷ chiếm 63,4%; có vốn từ 10-50 tỷ chiếm 18,8% và doanh nghiệp có vốn trên 50 tỷ chiếm 7,1%.

Lợi nhuận rất thấp

Thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tại doanh nghiệp ở Nghệ An năm 2020 là gần 6,3 triệu đồng, trong đó tại doanh nghiệp có vốn nhà nước là 7,6 triệu, doanh nghiệp tư nhân hơn 6,3 triệu, và doanh nghiệp có vốn FDI 5,5 triệu.

Tuy vậy, có một số ngành thu nhập của người lao động rất thấp, như dịch vụ du lịch, sản xuất xe có động cơ, sản xuất thiết bị điện… chỉ bằng hơn 1/3 so với thu nhập bình quân của doanh nghiệp trong tỉnh.

Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp rất thấp, năm 2020 đạt 6.858 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu bình quân giai đoạn 2018-2020 chỉ 2,17%. Doanh nghiệp trong một số ngành khai báo lỗ liên tục với quy mô lớn như khai khoáng, dệt may, chế biến gỗ, bán lẻ, dịch vụ kho bãi, dịch vụ ăn uống và lưu trú…

Ngoài ra, ở Nghệ An còn có hơn 155 ngàn hộ kinh doanh phi nông nghiệp, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại, công nghiệp chế biến…

Thu nhập thấp

Nghệ An là địa phương đất rộng, người đông. Tuy vậy, quy mô kinh tế nói chung còn rất nhỏ; GRDP đầu người thấp, và thuộc nhóm cuối trong số các tỉnh có thu nhập thấp.

Số doanh nghiệp mới thành lập hàng năm không cao; số đang hoạt động đến ngày 31/12/2020 là nhỏ so với dân số, so với diện tích của tỉnh. Thêm vào đó, tỷ lệ doanh nghiệp gia nhập thị trường/rút khỏi thị trường thuộc nhóm cao nhất trên cả nước.

Quy mô doanh nghiệp nói chung rất nhỏ trên tất cả các tiêu chí: vốn kinh doanh, giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn, doanh số, lao động và cả lợi nhuận trước thuế. Doanh nghiệp có vốn FDI có vai trò nhỏ hơn nhiều so với các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và miền Đông Nam bộ.

Đa số doanh nghiệp tập trung hoạt động trong các ngành sử dụng lao động giản đơn, cần ít vốn như xây dựng dân dụng, thương mại bán buôn, bán lẻ. Điều đáng ngạc nhiên là số doanh nghiệp kinh doanh lưu trú, ăn uống chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhiều so với bình quân chung cả nước và nhiều địa phương khác.

Doanh nghiệp trong các ngành công nghệ thông tin và các ngành nghề thể hiện xu thế phát triển trong thời đại 4.0 là không đáng kể.

Về địa lý, phân bố doanh nghiệp hoàn toàn mất cân đối; hơn 50% số doanh nghiệp tập trung tại thành phố Vinh; và do đó, hơn 50% vốn đầu tư, doanh số, tài sản và số công ăn việc làm do doanh nghiệp tạo ra tập trung ở đây. Số doanh nghiệp ở các địa phương miền núi hầu như không đáng kể.

Về hiệu quả kinh doanh, tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp còn khá khiêm tốn; tỷ suất lợi nhuận/vốn kinh doanh chỉ bằng chưa đầy 1/3 so với lãi suất tiết kiệm. Đáng lưu ý là doanh nghiệp ở một số địa phương và một số ngành báo cáo kinh doanh thua lỗ liên tục các năm gần đây, trong đó có một số ngành chế tác chế tạo, dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch, các ngành mới xuất hiện trong thời đại 4.0…

Số công ăn việc làm do doanh nghiệp tạo ra chiếm tỷ trọng nhỏ trong dân số ở độ tuổi lao động. Thu nhập bình quân của người lao động không cao; thậm chí thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp ở một số ngành, địa phương rất thấp, chỉ bằng 1/3-1/2 số bình quân trong tỉnh.

Bí thư, chủ tịch tỉnh phải thường xuyên quan tâm

Thực trạng sơ bộ trình bày trên đây cho thấy cộng đồng doanh nghiệp Nghệ An nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng còn rất yếu trên tất cả các mặt so với trung bình chung cả nước. Điều đáng nói thêm là, chưa thấy động lực nội tại và yếu tố bên ngoài hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp Nghệ An phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Để xác định được nguyên nhân của thực trạng nói trên, rất cần một nghiên cứu, điều tra, đánh giá sâu và toàn diện. Trên cơ sở đó, hội đồng nhân dân tỉnh ban hành một kế hoạch hành động với những giải pháp hợp lý, khả thi khắc phục các nguyên nhân, các nút thắt đối với phát triển cộng đồng doanh nghiệp của tỉnh nhà.

Tuy vậy, trong phạm vi bài viết này, tôi xin đề xuất một số định hướng sơ bộ đối với phát triển doanh nghiệp Nghệ An cả về lượng và chất như sau:

Nghệ An phải xây dựng và thực thi một chương trình phát triển doanh nghiệp. Phát triển doanh nghiệp phải đặt trong tổng thể chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nhất là phát triển các ngành kinh tế có lợi thế và phát triển kinh tế các địa phương (huyện, thị xã, thành phố).

Cải thiện mạnh mẽ, nhất quán môi trường kinh doanh; Bí thư Tỉnh uỷ, chủ tịch tỉnh phải thường xuyên quan tâm, coi đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của cá nhân và lãnh đạo tỉnh; liên tục theo dõi, đánh giá và chỉ đạo thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, chỉ đạo xử lý các vấn đề, tháo bỏ rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.

Cần có điều tra, nghiên cứu, xác định nguyên nhân tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới ở Nghệ An thấp, và giảm trong mấy năm gần đây; trong khi đó, số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể lại tăng lên.

Tại sao số doanh nghiệp xây dựng lại nhiều một cách khác thường so với địa phương khác và cả nước? Tại sao doanh nghiệp tại một số địa phương và một số ngành lại báo lỗ liên tục trong mấy năm gần đây? Tại sao một số ngành Nghệ An có lợi thế, một số ngành kinh tế mới… không phát triển được. Từ đó có các giải pháp tương ứng.

Xây dựng và thực thi thái độ và văn hóa làm việc mới “cùng đồng hành”, “là đối tác” với doanh nhân, doanh nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội địa phương trong toàn hệ thống chính trị, nhất là công chức, viên chức trong các cơ quan quản lý nhà nước.


 

Tin bài liên quan:

VNTB – Khi quyền lợi người lao động: phụ nữ mang thai 7 tháng đâm đơn kiện doanh nghiệp

Phan Thanh Hung

VNTB – Lỗi là do người tiêu dùng?

Bùi Ngọc Dân

VNTB – Khi nhà băng ‘ôm’ nợ xấu

Phan Thanh Hung

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.