1. Diễn biến vụ án:
Khoảng 21h ngày 14/7/2007: Trên đoạn đường vào nhà máy thép Đình Vũ (An Hải, HP) xảy ra một vụ án mạng, nạn nhân là Thiếu tá CSHS Nguyễn Văn Sinh (CA phường Đông Hải 2, q. Hải An, HP). Do vết thương quá nặng, ông Sinh đã chết vào 8h sáng 15/7/2007 tại bệnh viện.
Rạng sáng 3/8/2007: CQCSĐT CATP HP bắt giữ Nguyễn Văn Chưởng (sinh 1983, quê: Thôn Trung Tuyến, Bình Dân, Kim Thành, HD), là công nhân Công ty TNHH Đại Phát (HP), đã có vợ, không tiền án, tiền sự (Chưởng còn là chủ quán Café Thiên Thần ở phường Đông Hải 2, q. Hải An, HP). Bị bắt cùng ngày với Chưởng là Đỗ Văn Hoàng và Vũ Toàn Trung.
4/8/2007: Em trai Chưởng là Nguyễn Trọng Đoàn (sinh 1987), xin được giấy xác nhận của một số nhân chứng khẳng định họ đã gặp Chưởng trong buổi tối 14/7/2007 tại quê ở Hải Dương (tức là Chưởng không có mặt tại hiện trường vụ án ở HP vào thời điểm xảy ra án mạng – 2 địa điểm cách xa nhau khoảng 40 km).
10/8/2007: Đoàn mang đơn khiếu nại của mẹ cùng giấy xác nhận của các nhân chứng nộp cho CQCSĐT-CATPHP thì liền bị bắt khẩn cấp về tội “Che giấu tội phạm”. Sau này, Cáo trạng cũng quy kết Đoàn đã h/dẫn các nhân chứng “viết đơn, giấy xác nhận để khai báo gian dối và cung cấp tài liệu sai sự thật, che giấu hành vi phạm tội để cho Chưởng được ngoại phạm”.
3/11/2007: Báo Tiền Phong có bài “Vụ sát hại một Thiếu tá CA ở Hải Phòng: Những uẩn khúc cần làm rõ”, trong đó, tổ phóng viên điều tra phỏng vấn và trích dẫn đơn thư của một số nhân chứng khẳng định Chưởng có mặt ở quê HD vào buổi tối diễn ra vụ sát hại Thiếu tá Sinh. Nhân chứng Trần Quang Tuất cho biết: Trước đó, anh bị CQĐT dọa nên sợ hãi và viết lại lời khai là “không nhớ chính xác”.
27/01/2008: CQCSĐT ra KLĐT, k/định Chưởng đã khai nhận cùng Trung và Hoàng chém chết Thiếu tá Sinh với mục đích cướp của để lấy tiền mua heroin.
12/6/2008: TANDTP Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với Chưởng, Hoàng, Trung và Đoàn. Chưởng, Hoàng, Trung bị kết tội “Giết người” (theo điểm e, g, khoản 1 Điều 93 BLHS) và tội “Cướp tài sản” (theo khoản 1, Điều 133 BLHS). Chưởng bị cáo buộc là chủ mưu, lĩnh án tử hình; Hoàng bị cáo buộc là kẻ thủ ác, lĩnh án chung thân; còn Trung 20 năm tù, do khai nhận hành vi phạm tội + với tình tiết bà nội của Trung được tặng thưởng Huy chương (áp dụng Điều 46 BLHS). Đoàn bị kết án 2 năm tù về tội “Che giấu tội phạm” theo Điều 313 BLHS. <Chưởng, Hoàng, Đoàn đã kháng cáo>.
21/11/2008: TANDTC mở phiên tòa phúc thẩm (chủ tọa Nguyễn Văn Sơn) tuyên y án sơ thẩm.
* Chưởng tiếp tục kháng cáo kêu oan với lý do thời điểm xảy ra vụ án mạng Chưởng không có mặt ở HP mà đang ở quê HD;
* Hoàng kháng cáo kêu oan với lý do không tham gia cùng Chưởng, Trung;
* Đoàn kháng cáo kêu oan với lý do việc xác nhận Chưởng có mặt ở quê là đúng sự thật.
7/4/2009: Từ trại giam, Chưởng gửi thư cho mẹ và gia đình, tường thuật lại toàn bộ vụ việc, khẳng định bị tra tấn, ép cung nên mới phải nhận tội:
“Họ đánh con tới tấp, con không nói được câu nào nữa, họ thôi đánh thì con mới thở được và nói là sao các chú đánh cháu, cháu có làm gì đâu? Và họ nói “Không làm gì thì tao mới đánh, chứ làm gì thì đã không bị đánh” và họ lại tiếp tục đánh con và dùng còng số 8 treo chỉ có hai đầu ngón chân cái chạm xuống đất…Khi ở trên trại Kế, Bắc Giang, con đã nghĩ là mình không thể sống được đến lúc ra trước tòa để nói lên toàn bộ sự thật nên con đã thêu lên tất cả quần áo chữ Chưởng VT tức “Chưởng vô tội”. Cả vỏ gối con cũng thêu nữa, còn áo phông trắng con thêu bài thơ kêu oan…”.
18/4/2011: VKSNDTC ra “Kháng nghị giám đốc thẩm số 09/KN-VKSTC-V3”, đề nghị HĐTP TANDTC xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy bản án hình sự phúc thẩm đối với Chưởng để xét xử phúc thẩm lại theo hướng giảm hình phạt cho Chưởng xuống tù chung thân.
7/12/2011: HĐTP TANDTC gồm 11 thành viên do Chánh án Trương Hòa Bình làm chủ tọa, mở phiên tòa giám đốc thẩm, bác Kháng nghị của VKSNDTC.
15/5/2012: 5 VPLS biện hộ cho Chưởng cùng làm kiến nghị gửi CTN Trương Tấn Sang, cho rằng kết án tử hình Chưởng là oan, sai, đồng kiến nghị CTN cho dừng việc thi hành án tử hình đối với Chưởng và giao cho CQĐT-VKSNDTC xem xét trách nhiệm hình sự của những người tiến hành tố tụng.
18/4/2013: Nhân chứng Trần Quang Tuất (cùng quê với Chưởng, ở Bình Dân, Kim Thành, HD) làm đơn xác nhận thời điểm xảy ra vụ án mạng, Chưởng có mặt ở quê HD. Trong đơn, anh Tuất phản ánh việc bị CA tra tấn, ép cung: “Tôi bị các anh CA dọa nạt, chửi bới, có lúc khóa tay vào ghế, đấm vào đầu, dọa bắt giam tôi… suốt cả ngày làm việc các anh CA luôn bắt ép tôi phải viết là: “Không nhớ rõ thời gian gặp Chưởng, và việc tôi làm giấy xác nhận để gửi cho cơ quan CA trước đây là do tôi nhớ nhầm. Do lo sợ bị bắt giam, nên tôi đã không còn cách nào khác là phải viết theo yêu cầu của CA…”.
10/9/2013: Nhân chứng Trịnh Xuân Trường (bạn của Chưởng) làm đơn gửi VKSNDTC, xác nhận Chưởng có mặt ở quê nhà HD vào tối 14/7/2007. Trong đơn, anh Trường cũng cho biết đã bị tra tấn, ép cung: “Chính CA tên Phong đã dùng thuốc lá đang hút châm bỏng hai bụng cánh tay tôi trước đó. Không chịu được đòn tra tấn quá dã man và do ít hiểu biết về pháp luật nên tôi phải viết theo hướng dẫn của CA”.
20/9/2014: Từ trại tạm giam Trần Phú (HP), Chưởng tiếp tục làm đơn kêu oan.
12/12/2014: Hai Ls Phạm Hoàng Việt và Hoàng Văn Quánh (Đoàn LSTP Hà Nội) bào chữa cho Nguyễn Trọng Đoàn và Nguyễn Văn Chưởng, làm đơn kiến nghị cho rằng việc tuyên án tử hình với Chưởng vì tội giết người là thiếu căn cứ, “có rất nhiều điểm còn chưa được CQĐT làm rõ, nhiều điểm mâu thuẫn và vi phạm tố tụng”.
13/3/2015: Trả lời chất vấn của UBTVQH về vụ án Nguyễn Văn Chưởng, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình cho biết: Viện trưởng VKSND tối cao có kháng nghị nhưng HĐTP TANDTC bác kháng nghị này. Qua phân tích, TANDTC nhận định, Chưởng là người cầm đầu vụ giết người, cũng là 1 trong những người chém nạn nhân. Quyết định của HĐTP là cao nhất, là sau cùng, Chánh án cũng không thể làm gì được. “Vậy giao Chánh án giải quyết lại thì tôi chịu thua, không có cách nào làm được…Tất nhiên, nếu có kiến nghị của Quốc hội thì chúng tôi sẽ xem xét thận trọng”.
2. Vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng
Vi phạm nghiêm trọng trong bảo vệ, khám nghiệm hiện trường vụ án.
– Vụ giết người xảy ra hồi 21h30’ ngày 14/7/2007, nhưng đến 15h30’ ngày hôm sau mới tổ chức khám nghiệm hiện trường.
– CQĐT không tổ chức bảo vệ giữ nguyên hiện trường vụ án; việc thu giữ, quản lý vật chứng của vụ án rất tùy tiện: Cảnh sát Phạm Hồng Quang (chiến sỹ CAP Đông Hải 2) đem áo mưa, áo cảnh sát, dép…của nạn nhân Sinh gửi ở phòng bảo vệ Công ty Neu Hope; còn điện thoại di động và khẩu súng K59 + 1 băng đạn còn 1 viên của nạn nhân Sinh thì anh Quang cầm và mang đi đâu không rõ, đến hơn 1h ngày 15/7/2007 mới được lập biên bản thu giữ và đến 17h cùng ngày mới làm thủ tục niêm phong (BL: 517; 535).
– Việc nạn nhân Sinh đi dép hay đi giày khi bị chém cũng chưa được làm rõ.
+ Nhân chứng Phạm Hồng Quang khai anh Sinh đi dép (BL: 517);
+ Nhân chứng Nguyễn Văn Phước cũng khai anh Sinh đi dép (BL: 535);
+ Nhân chứng Đặng Thái Sơn khai anh Sinh đi giày đen có dây (khai 2 lần: BL 523, 524).
3. Đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, thiếu khách quan
1. Dấu vết để lại trên áo và thi thể nạn nhân khẳng định nạn nhân không chỉ bị tấn công, tác động tại hiện trường, mà có thể đã bị tấn công, tác động trước đó ở một địa điểm khác:
– CQĐT chưa chứng minh được là nạn nhân Sinh đã ở đâu, làm gì, tiếp xúc với ai để tạo nên thương tích trên thân thể như Bản Giám định pháp y của Viện khoa học hình sự đã kết luận: “Các vết hằn xây xát da mềm đỏ nâu ở vùng lưng do vật cứng có cạnh dài tiếp xúc hẹp gây ra; ngoài ra còn có các tổn thương bầm tụ máu vùng thắt lưng hai bên do vật tày gây nên”, để làm căn cứ xác định nguyên nhân cái chết của nạn nhân.
– Các lời khai mâu thuẫn, hành vi, hung khí và dấu vết trên cơ thể nạn nhân không phù hợp cũng không được thực nghiệm điều tra làm rõ…
– Các cơ quan tiến hành tố tụng đã kết luận hung khí của nhóm Chưởng là dao, kiếm chứ không có hung khí nào là vật tày (vậy có chăng, trước khi bị chém bằng dao, kiếm là vật sắc, nhọn ở cổng Nhà máy thép Đình Vũ thì Thiếu tá Sinh đã bị tác động, tấn công bằng vật tày ở địa điểm khác?).
2. Không làm rõ chiếc khẩu trang tại hiện trường vụ án là của ai.
Biên bản giao nhận vật chứng thu được tại hiện trường vụ án, ngoài xe máy, dao, kiếm…còn thống kê có 1 khẩu trang trắng kẻ xanh (BL:698), nhưng CQĐT không làm rõ chiếc khẩu trang đó là của ai và có liên quan đến vụ án hay không.
3. Biên bản giám định không kết luận vân tay ở cò khẩu súng K59 thu tại hiện trường là của ai.
– Vậy lấy cơ sở nào kết luận anh Sinh đã bắn?
– Cần phải làm rõ khẩu súng đó anh Sinh có được cấp phép sử dụng không? Đơn vị nào cấp? cấp từ khi nào?…
4. Thời gian sinh hoạt của nạn nhân Sinh trước khi bị chém không được làm rõ.
5. Người lạ bí ẩn không được làm rõ.
Tại bút lục 515, nhân chứng Phạm Hồng Quang (chiến sỹ CAP Đông Hải 2) khai: Ngay sau khi nạn nhân Sinh bị bắn, anh Quang nhìn thấy có một người lạ đi cùng Đặng Thái Sơn (chiến sỹ CAP Đông Hải 2) tới chỗ nạn nhân Sinh đang nằm hôn mê tại hiện trường / nhưng CQĐT không làm rõ người lạ đó là ai và đến với mục đích gì.
6. Việc quy kết Hoàng, Trung, Chưởng chém nạn nhân Sinh nhằm cướp tài sản là không thuyết phục.
Cả 2 cấp xét xử (ST, PT) cũng như Giám đốc thẩm đều đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, suy đoán ép tội, quy kết Chưởng là chủ mưu và nhóm Chưởng chém anh Sinh vì mục đích cướp tài sản.
Căn cứ vào diễn biến vụ án do chính các cơ quan tiến hành tố tụng kết luận, thì trong suốt quá trình chuẩn bị phạm tội cũng như quá trình phạm tội của nhóm Chưởng, Hoàng, Trung không có sự bàn bạc, phân công vai trò của từng người; không có sự phân công việc chuẩn bị hung khí; không có sự bàn bạc về cách thức sẽ đi cướp; đặc biệt không bàn đến việc sẽ giết người để cướp tài sản (như vậy, không loại trừ nguyên nhân Thiếu tá Sinh có thể bị chém vì ghen tuông tình ái hoặc mâu thuẫn xã hội…).
7. Việc quy kết Chưởng là chủ mưu và tham gia chém nạn nhân là áp đặt, không khách quan.
– Lời khai của các bị cáo và một số nhân chứng cho thấy có nhiều mâu thuẫn, không đủ cơ sở kết luận Chưởng là chủ mưu, nhưng không được làm rõ. Các cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu dựa vào lời khai còn nhiều mâu thuẫn của Trung và Phương (người yêu Trung) để buộc tội Chưởng.
– KLĐT, Quyết định truy tố và các bản án đều khẳng định: Khi phát hiện có người đi xe máy ngược chiều, Chưởng điều khiển xe máy quay lại và chỉ nói một câu “Đây rồi” chứ không có câu nào mang ý nghĩa chỉ huy hay ra lệnh cho cả bọn nhảy xuống chém nạn nhân.
– Khi Chưởng dừng xe chỉ có Hoàng và Trung nhảy xuống chém anh Sinh và một trong những nhát chém của Hoàng là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nạn nhân (Bản giám định pháp y số 33-374/2007 ngày 19-7-2007 của Tổ chức giám định pháp y Hải Phòng kết luận: “Nạn nhân bị một số vết thương tích trên cơ thể, trong đó có 1 vết thương sọ não hở vùng thái dương phải gây choáng chấn thương sọ não nặng không hồi phục quyết định sự chết của nạn nhân).
Khi anh Sinh nổ súng thì Trung và Hoàng chạy lại chỗ Chưởng vẫn đang ngồi đợi trên xe máy và được Chưởng lái xe bỏ chạy.
Các bản khai của nhân chứng Nguyễn Văn Phước (bảo vệ Công ty Hoàng Gia) chứng kiến quá trình anh Sinh bị chém đều khẳng định: Có 3 người đèo nhau trên một xe máy, khi gặp anh Sinh chỉ có 2 người ngồi sau nhảy xuống chém, khi anh Sinh nổ súng thì 2 người đó chạy lại chỗ người cầm lái vẫn đang nổ máy đứng đợi, sau đó cả 3 bỏ chạy/ lời khai của nhân chứng Phước phù hợp với lời khai của Chưởng và Trung là Chưởng chính là người điều khiển xe máy chở Hoàng và Trung (BL: 110; 123; 243; 359…).
8. Có nhiều nhân chứng xác định thời điểm xảy ra vụ án, Chưởng có mặt ở quê Hải Dương nhưng không được điều tra, đối chất một cách khách quan.
Chưởng khai đã cung cấp bản kê các cuộc gọi đi, gọi đến điện thoại của Chưởng (0974.863.087) trong thời điểm xảy ra vụ án, nhưng không được xem xét.
9. Có dấu hiệu bức cung, nhục hình.
Tại các phiên tòa ST, PT, Chưởng và Hoàng đều phản cung, họ khai rằng việc họ nhận tội ở CQĐT là do bị ép cung, bị đánh đập (vậy phải chăng đó chính là nguyên nhân làm cho các lời khai của Hoàng, Chưởng, Trung có nhiều mâu thuẫn?), nhưng không được điều tra làm rõ.