(VNTB) – Những người lính miền Nam tưởng rằng Cộng sản sẽ giữ lời hứa… Than ôi! tất cả nạn nhân đã bị lừa gạt để phải trải qua nhiều năm khổ nhọc trong các trại tập trung.
Sau khi chiếm được miền Nam vào tháng Tư năm 1975, Cộng sản đã lập tức tiến hành nhiều biện pháp để củng cố quyền lực. Một trong những biện pháp đó là đề ra chính sách cải tạo để lừa gạt và lừa vào các trại khổ sai hàng trăm ngàn cựu quân nhân, viên chức chế độ cũ ở miền Nam cũng như những nhà trí thức, tu sĩ các tôn giáo, những người giàu có và ngay cả những đảng viên Cộng Sản mà họ không còn tin cẩn. Những thành phần nói trên chịu đựng nhiều năm dài và đã có hàng chục ngàn người bị chết do hành quyết, tra tấn, đói khát, chịu nhiều thứ bệnh hiểm nghèo, và điều kiện sinh hoạt tồi tệ. Ngay cả gia đình họ cũng bị ngược đãi, cắt đứt các nguồn sống. Nhà cầm quyền Cộng Sản tuyên bố rằng các trại này là để thay đổi những người chế độ cũ qua sự lao động và giáo dục chính trị. Trong thực tế, các trại này là những nhà tù lao động khổ sai để giam giữ những người đối kháng cũ trong một thời gian dài thay vì tàn sát họ như các dư luận quốc tế từng dự liệu về một cuộc tắm máu vĩ đại sau chiến tranh.
Ngày nay, đã tròn 50 năm qua; nhưng vết thương do những tội ác mà người Cộng sản gây ra vẫn chưa hề được hàn gắn trong số những nạn nhân và gia đình họ. Người Cộng sản không chịu nhìn nhận tội ác của họ đã gây ra trong những năm dài kinh hoàng đó; họ cũng làm ngơ không tiết lộ những chi tiết về các trại khổ sai và con số người đã chết trong vòng lao lý. Trong khi vẫn hô hào kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc, họ vẫn cứ tiếp tục gieo thêm những hạt giống thù hận đối với chế độ cũ ở miền Nam bằng cách viết lại trang lịch sử chiến tranh theo cách nhìn đầy thiên vị của họ.
Với kinh nghiệm của một nạn nhân từng bị tù đày trong gần mười năm trong các trại khổ sai, tôi sẽ trình bày những điều tôi trải qua, biết được để nói lên sự thật cho nó không bị thế giới lãng quên mà còn phải cùng hợp tác để tránh nó xảy ra trong tương lai.
Sự Lừa Gạt Vĩ Đại
Từ tháng Năm cho đến tháng Bảy năm 1975, Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, nhân danh Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, tổ chức những lớp học ba ngày dành cho các hạ sĩ quan và binh sĩ quân đội miền Nam. Sau đó, họ triệu tập các sĩ quan với chương trình hứa hẹn trong 15 ngày dành cho cấp úy, và 30 ngày dành cho cấp tá và cấp tướng. Đến tháng 8, họ bủa một mẻ lưới cuối cùng kêu gọi tất cả những cựu quân nhân đi trình diện để theo học những lớp kéo dài trong bảy ngày.
Trong các thông cáo, họ ghi như sau (xem ảnh):
(1) Sĩ quan (ngụy) cấp đại úy, thiếu tá, trung tá đã được về hưu hoặc giải ngũ; sĩ quan ngụy cấp đại úy đến đại tá đã được hoãn học tập trong các đợt tập trung cải tạo từ trước đến nay:
Đúng bảy giờ ngày 20 tháng 8, 1975 phải có mặt tại trường Don Bosco, số 12 đường Trương Vĩnh Ký, Gò Vấp để học tập trong thời hạn bảy ngày.
(2) Những người đến tập trung phải mang theo giấy bút, quần áo, chăn màn, các đồ dùng cá nhân và lương thực, thực phẩm (tiền và hiện vật) đủ dùng trong bảy ngày kể từ ngày tập trung (ngày đầu mang lương khô ăn; ngày thứ hai trở đi do nhà thầu cung cấp.
Ở tất cả các tỉnh thành khác, cũng có thông cáo tương tự.
Những người lính miền Nam hời hợt tưởng rằng chế độ mới sẽ hàn gắn và cho họ sớm trở lại đời sống mới trong một đất nước thanh bình. Họ tin rằng Cộng sản sẽ giữ lời hứa! Than ôi, tất cả nạn nhân đã bị lừa gạt để phải trải qua nhiều năm khổ nhọc trong các trại tập trung.
Trừ một số nhỏ những người có thân nhân là đảng viên cao cấp của đảng Cộng sản, những người khác đều chịu tối thiểu là ba năm cho đến hàng chục năm tù. Câu nói thường nghe từ miệng các cán bộ trại tù là: “Các anh sẽ được cải tạo để trở thành con người mới qua giáo dục, lao động, chấp hành nội qui. Khi nào chứng tỏ sự tiến bộ, các anh sẽ được trả về với gia đình để cùng xây dựng cuộc sống mới hạnh phúc.”
Vào giữa năm 1976, Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam công bố chính sách 12 điểm trong đó ấn định thời gian cải tạo là ba năm. Đến năm 1978, khi tù nhân thắc mắc về kỳ hạn đã đến, các cán bộ tại trại cải tạo lại giải thích rằng ba năm chỉ là một cái mốc để trại viên phấn đấu; và những ai không chứng tỏ sự tiến bộ sẽ bị giữ thêm nhiều mốc nữa,
Ước lượng có hơn một triệu người miền Nam bị giam giữ trong các trại cải tạo ngắn hạn; hai trăm ngàn người bị giữ ít nhất là một năm cho đến vài chục năm. Tháng 5 năm 1976, báo Nhân Dân đăng lời dối trá của Thủ tướng Cộng sản Phạm Văn Đồng khi trả lời phóng viên quốc tế rằng “hiện chỉ còn vài ngàn trong trại cải tạo; là những kẻ ăn gan uống máu theo nghĩa đen”. Trong khi vào năm 1988, Bộ Thông tin Cộng sản xác nhận có khoảng một trăm ngàn quân nhân và viên chức chính quyền miền Nam bị giam giữ trong các trại tập trung. Như thế, họ đã lừa gạt nạn nhân tham dự các lớp cải tạo trong vài tuần và hậu quả là giam giữ người ta trong nhiều năm dài lao động khổ sai.
Mục Đích của các Trại Tập Trung Cải Tạo
Mặc dù chính quyền miền Nam đã đầu hàng và đất nước đã thống nhất về một mối, chính quyền Cộng sản vẫn coi người miền Nam là kẻ thù mà sẽ không dễ gì chấp nhận chế độ của họ. Hơn nữa, sau hơn hai mươi năm chiến tranh, mối thù hận đã bị cấy sâu vào tâm tư họ. Họ vẫn còn lo sợ những người miền Nam sẽ lập nên những lực lượng chống đối gây nguy hiểm cho họ.
Cộng sản đã kết án người lính miền Nam tội danh phản bội tổ quốc và là mối nguy cho nền nội an. Họ không đưa những nạn nhân này ra tòa án để xét xử mà lại lý do rằng chính sách “cải tạo” là nhân đạo, khoan dung hơn là việc xét xử ở tòa.
Đối với người Cộng sản – từ Liên Xô, Trung Hoa cho đến Việt Nam – chính sách “cải tạo” là biện pháp thuận lợi nhất để loại bỏ kẻ thù, ít nhất là làm tê liệt sinh lực và ý chí của họ; cô lập họ khỏi dân chúng và vừa tận dụng sức lao động của họ. Đó cũng là ngón đòn trừng trị kẻ thù vừa răn đe những ai manh nha chống đối trong tương lai. Tựu trung, họ vẫn lo ngại những quân nhân miền Nam vẫn còn nhiều ảnh hưởng trong quần chúng.
Các Trại Cải Tạo
Có hàng trăm trại tập trung được dựng lên ở khắp nước, từ Nam ra Bắc. Một vài nơi dùng các doanh trại cũ của quân đội miền Nam, còn lại đa số là các trại mới dựng lên ở các vùng hoang vu bao quanh bởi rừng núi hay giữa lòng thung lũng.
Tôi đã bị giam giữ trong chín năm chín tháng qua nhiều trại khác nhau, mà cuối cùng là trại A-20 Xuân Phước ở tỉnh Phú Yên. Đây là nơi giam giữ những tù nhân thuộc thành phần mà Cộng sản đánh giá là cứng đầu và nguy hiểm. Những tù hình sự là những người bị án chung thân hay tử hình đang chờ ngày hành quyết. Trại A-20 nằm lọt giữa lòng thung lũng Kỳ Lộ, bao quanh bởi ba dãy núi; là nơi mà trong cuốn Hồi Ký 26 Năm Lưu Đày, Thượng Tọa Thiện Minh mô tả là “Thung Lũng Tử Thần.” Trong suốt lịch sử của trại, chưa hề có tù nhân nào trốn trại mà không bị bắn chết hay bị bắt trở lại. Trong chiến tranh, đây là lãnh thổ Liên Khu Năm, cái nôi của kháng chiến Cộng sản. Vùng này phải cậy vào Quân Đội Nam Hàn để bình định nhờ các chiến thuật cứng rắn của họ.
Trong ngày đầu tiên đến trại, chúng tôi đã nghe lời đe dọa của trại trưởng Thân Như Yên: “Các anh sẽ ở đây cho đến mục xương!”
Trại A-20 có năm phân trại là A, B, C, D, và E. Hai phân trại A và E ở cạnh nhau, gần cơ quan hành chánh của trại. Các trại khác ở xa hơn, mỗi trại cách nhau vài cây số. Chung quanh khu vực trại là những xóm nhà tí hon, mái lá, vách đất của nông dân nghèo. Họ là những người tuyệt đối trung thành với Cộng sản.
Ở phân trại E của chúng tôi, có bốn dãy nhà gạch được ngăn cách nhau bằng các hàng rào kẽm gai. Mỗi nhà chứa bốn hay năm đội; mỗi đội có 30 người. Trên cái nền bằng xi măng (ở tầng dưới) và bằng gỗ thô (tầng trên), chúng tôi chia nhau mỗi người một bề ngang chừng hơn bốn tấc; khi ngủ phải nằm nghiêng, hay quay ngược đầu với hai người bên cạnh. Chừng sáu giờ chiều, sau khi phát phần ăn, tù nhân bị lùa vào bên trong. Các căn nhà được khoá lại. Mỗi tối, tù nhân phải trải qua chừng hai giờ để tự kiểm điểm, phê bình bản thân và phê bình những người cùng đội sau một ngày làm việc để đánh giá ai làm giỏi, ai trây luời, ai có những câu nói tiêu cực hay chống đối gây ảnh hưởng xấu đến người khác…
Điều Kiện Sinh Hoạt và Lao Động
Đời sống trong trại thật khủng khiếp. Người tù đói triền miên. Hai năm đầu dưới sự quản lý của bộ đội, thức ăn tương đối khá nhưng gạo lại rất khan hiếm. Sự khan hiếm này cũng xảy ra ngoài xã hội, không riêng trong trại tù. Bắt đầu là ăn gạo mục lấy từ các kho mà Việt Cộng cất giấu trong rừng; sau đó là những năm chỉ có hạt bo bo để ăn. Từ năm 1979 về sau, trại A-20 trồng cây khoai mì làm lương thực chỉnh. Đây là loại mì H-34 có gốc ở Ấn Độ là nơi mà người ta dùng tinh bột của nó để chế tạo các sản phẩm polyethylene. Loại mì này có hàm lượng chất độc Acid Anhydric rất cao có thể gây tử vong nếu củ mì không được ngâm trong nước và loại bỏ phần lõi và vỏ lụa. Thời gian đầu, Dân biểu Trần Thế Minh đã chết vì ăn nhiều loại mì này. Mỗi bữa ăn, mỗi người được phát vài lát khoai mì khô đã luộc; thỉnh thoảng cũng được lưng một chén cơm. Thức ăn thì luôn luôn là loại nước nấu từ xác mắm pha thêm muối. Rau xanh thì tù nhân trồng nhiều, nhưng chỉ được ăn khi rau đã già; rửa qua loa trong cái chảo lớn và thường là còn dính những vụn vãi phân người mà tù nhân dùng để bón rau. Chỉ vào ba ngày lễ lớn trong năm mà tù nhân có được chút thịt heo mà mỗi miếng chỉ bằng ngón tay cái, đa phần là da và xương. Một cựu sĩ quan tiểu đoàn trưởng Pháo Binh đã khai với nhân viên Di trú Mỹ rằng: “Chúng tôi chẳng có gì để ăn! Họ chi phát cơm mỗi tháng một lần. Những ngày khác, chỉ có các loại củ, bắp…”
Tại trại Hà Nam Ninh, liên tiếp trong hai năm, mỗi tuần có khoảng 15 người bị chết vì đói và các bệnh hiểm nghèo cho đến khi trại phải cho phép tù nhân được nhận lương thực và thuốc men từ gia đình gửi đến. Trong suốt những năm tù đày, chúng tôi phải săn nhặt bất cứ thứ sinh vật nào để cho vào miệng; kể cả rắn rết và côn trùng!
Tình trạng vệ sinh và y tế trong trại tù cũng rất tồi tệ! Tiêu chuẩn chữa trị cho tù nhân là ở các trạm y tế trại do một y tá hay bác sĩ cũng là tù nhân. Thuốc men thì chỉ có thuốc nam làm từ các loại lá, rễ. Không hề được cung cấp các thuốc tê, mê hay giảm đau mỗi khi cần đến nhổ răng hay mổ xẻ. Tù nhổ răng cho bạn bằng cái đinh hay miếng sắt uốn cong làm đồ nạy. Tù nhân lao động gặp tai nạn gãy tay chân cũng chỉ được trị trong trại mà không chuyển ra bệnh xá. Ở trại Đông Giang tỉnh Khánh Hòa, có chừng 100 tù nhân chết vì kiệt sức và thiếu chữa trị. Chúng ta cần nhớ, trong xã hội Cộng Sản, mỗi tầng lớp từ dân thường lên đến đảng viên, cán bộ cấp huyện, tỉnh, trung ương đảng đều có tiêu chuẩn chữa trị khác nhau.
Tại Xuân Phước, chúng tôi làm việc từ tờ mờ sáng cho đến chạng vạng tối, dưới sức nắng chói chang hay trong cơn mưa lũ. Những năm đầu, tù nhân khai hoang vùng rừng núi để làm đất trồng khoai mì hay các hoa màu khác. Công việc liên tục nhất là đào các ao nuôi cá, ngay cả giao thông hào quanh trại cũng nói là để nuôi cá! Các cán bộ đi theo đội đề ra chỉ tiêu cho mỗi người phải đào hàng chục hố rộng 0.5 x 0.5 x 0.5 mét khối để đặt các khúc rễ cây khoai mì. Có trại thì tù nhân phải đào xới hàng chục mét đất mỗi ngày cho các kênh đào; có nơi phải vào rừng đẵn các khúc gỗ lớn, tre rừng đưa về trại. Chỉ tiêu này cứ tăng dần theo ngày tháng; và nếu tù nhân không đạt được thì sẽ không được phép xuống ao tắm rửa sau một ngày nhễ nhại mồ hôi trên nông trường. Ở nhiều trại tù khác, tù nhân phải đi làm trên những khu đất trước đó là bãi mìn. Họ không được cấp phát dụng cụ thích ứng để bảo vệ. Rất nhiều người bị mìn nổ mất mạng hay mất tay, chân.
Vào cuối mỗi tháng, các đội sẽ họp chọn bầu những cá nhân lao động với năm hạng: xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, và kém cỏi. Kết quả của sự bình chọn này sẽ tiêu chuẩn khoai mì nhiều hay ít của mỗi người trong tháng kế tiếp.
Nói chung, lao động thì cực nhọc, dụng cụ thì tự làm lấy bằng bất cứ thứ gì kiếm được; và ăn uống thì kham khổ, thuốc men thì thiếu thốn. Tỷ lệ tù nhân chết khá cao. Các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ ước tính có đến hàng chục ngàn tù nhân đã bỏ mình trong các trại cải tạo.