Việt Nam Thời Báo

VNTB – Phản biện luận điểm ghép đôi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ với Pháp môn Chiếu Minh Tam Thanh của Giáo Sư Janet Hoskins

Dương Xuân Lương

 

(VNTB) – Từ nhân chứng cho đến các dữ kiện đã chứng minh ĐĐTKPĐ và Pháp môn độc lập nhau.

 

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) nói tắt là Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập năm 1926 với nhiệm kỳ 700.000 (bảy trăm ngàn) năm. Trong khi đó Pháp môn Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi lập ra năm 1924 với nhiệm kỳ 1.500 (một ngàn năm trăm) năm. Hai tổ chức này độc lập nhau.

 

I/ Đặt vấn đề

Một số nghiên cứu đã ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn; và phân vai ĐĐTKPĐ là Ngoại giáo công truyền, Phái phổ độ … và Pháp môn là Nội giáo tâm truyền, Phái vô vi…

Giáo Sư Janet Hoskins Trường Đại Học Nam California cũng đưa ra quan điểm này trong hai bài nghiên cứu.

Tiếng Việt: Con Người và Khả Năng Sáng Tạo Thần Học của Phạm Công Tắc (trang 06-09) (1)

Tiếng Anh: A Posthumous Return from Exile: The Legacy of an Anticolonial Religious Leader in Today’s Vietnam (trang 225-229) (2)

Bài phản biện có mục đích:

Khẳng định ĐĐTKPĐ và Pháp môn là hai tổ chức độc lập nhau. Phản bác luận điểm sai lệch từ Giáo Sư Janet Hoskins cùng các tài liệu ghép đôi hai tổ chức này.

Căn cứ vào pháp lý, giáo lý và lịch sử được Hội Thánh Cao Đài kiểm duyệt, thông tin từ các nhân chứng lịch sử, để bảo vệ sự chính xác trong nhận thức về ĐĐTKPĐ.

 

II/ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ và Pháp môn Chiếu Minh Tam Thanh là hai hệ thống độc lập nhau.

Thượng Đế nhìn sự tiến hóa của nhân loại thời Văn minh điện và điện tử, nên lập giáo cho ĐĐTKPĐ với hệ thống Thể pháp và Bí pháp. Vì vậy khác biệt hoàn toàn so với Pháp môn tiếp tục theo mô hình thời Văn minh Nông nghiệp: Ngoại giáo công truyền (Tiệm giáo, Tiệm ngộ) và Nội giáo tâm truyền (Đốn giáo, Đốn ngộ).

1/ Khác biệt về nguồn gốc, lịch sử và nhiệm kỳ.

1.1/ ĐĐTKPĐ.

Đức Thượng Đế dạy tổ chức Lễ Khai Đạo ngày 18-11-1926, tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh. Bà Nguyễn Hương Hiếu, nhân chứng từ đàn cơ đầu tiên, viết Đạo Sử (1958), được Hội Thánh Cao Đài kiểm duyệt và ban hành năm 1968. Bài phản biện dựa trên bản in 1995.

Đạo sử Q 1 trang 8. Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang viết Lời Xác Nhận: … Nhờ chơi Xây Bàn mà ba ông CƯ, TẮC, SANG học hỏi Ðạo Lý, trau giồi trí thức cho tới ngày Ðức A.Ă. Chính là Ðức Chí Tôn dạy ba ông vọng Thiên bàn ngoài sân, quì giữa Trời mà cầu Ðạo (nhằm ngày mùng 1 tháng 11 Ất Sửu, dl. 16–12–1925).

Ðó là ba vị Ðệ Tử mà Ðức Chí Tôn thâu nhập môn trước nhứt trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ (TÂY NINH) … (hết trích).

Ngài Cao Hoài Sang là một trong ba vị đệ tử đầu tiên khi Thượng Đế mở ĐĐTKPĐ, nên là nhân chứng.

Trang 34 viết: Ngày Vọng Thiên Cầu Ðạo là sắp vô đề mở Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Các Ðấng dìu dắt ba ông lần lần, nghĩa là ba ông mới nhập trường Ðạo (Hết trích).

Nhiệm kỳ: Pháp Chánh Truyền Chú Giải (PCT CG) bản năm 1932 xác định nhiệm kỳ của ĐĐTKPĐ là 700.000 năm (Lời Tựa).

1.2/ Pháp môn Chiếu Minh.

Sách Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu (LSQP NVC), bản 1996, trang 114, 115 ghi lại thông tin do chính Ngài Chiêu viết:

Năm Thứ nhất về Cơ Đại Đạo là năm 1924.

Đạo của Cao Tiên đây hiệu là Thiên Hoàng (1) kể từ năm 1924 (2) gọi là năm thứ nhứt về cơ Đại-Đạo đếm tới 500 năm, từ 501 tới 1.000 năm sau là Địa Hoàng, rồi 1001 tới 1500 năm sau nữa là Nhơn Hoàng. (3) 

Thiên hoàng từ 1924 đến 2424 = 500 năm

Địa Hoàng 2424 đến 2924 = 500 năm

Nhơn Hoàng 2924 đến 3424 = 500 năm

Tổng cộng: 1.500 năm.

Đừng cho ai coi biết làm chi, …. (hết trích).

Ngài Chiêu là nhân chứng.

ĐĐTKPĐ có nhiệm kỳ 700.000 năm, Pháp môn có nhiệm kỳ 1.500 năm, chênh lệch 466 lần. Sự khác biệt về nhiệm kỳ xác định mỗi tổ chức có lộ trình riêng. Vì vậy, việc ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn là sai.

Lưu ý 1: Ngài Ngô Văn Chiêu được Cao Tiên thâu nhận năm 1920 và trở thành đệ tử đầu tiên của Pháp môn (1924). Thượng Đế thâu nhận ba vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang ngày 16-12-1925, mở đầu cho ĐĐTKPĐ (1926). Ngài Ngô Văn Chiêu, Ngài Cao Hoài Sang, Bà Nguyễn Hương Hiếu là nhân chứng. Cả ba khẳng định ĐĐTKPĐ và Pháp môn độc lập nhau. (3). Nhân chứng là căn cứ vững chắc, không thể bị thay đổi hoặc diễn giải sai lệch.

2/ Khác biệt về hình thức và nội dung.

ĐĐTKPĐ có Thể pháp (hình thức) và Bí pháp (nội dung) phù hợp với tài nguyên và môi trường Văn minh điện và điện tử. Pháp môn có Ngoại giáo công truyền (hình thức) và Nội giáo tâm truyền (nội dung) theo các tôn giáo thời Văn minh nông nghiệp.

2.1/ ĐĐTKPĐ có Thể pháp và Bí pháp.

PCT CG trang 64, bản 1932: Đạo Cao Đài có thể pháp (ngoại dung) và bí pháp (nội dung).

Thể pháp là phần hữu hình, phần biểu tượng thông qua các hình thức như công trình kiến trúc, qui hoạch kiến thiết, tổ chức hành chánh, kinh sách, và nghi lễ… Thể pháp là nền tảng của Bí pháp.

Bí pháp là phần thụ đắc và ứng dụng của mỗi người từ Thể pháp.

Thể pháp và Bí pháp hòa quyện nhau như âm dương để dìu dẫn nhơn sanh trên đường tương đối trong xử thế và xuất thế; đạt được tôn chỉ của Đại Đạo. (3)

2.2/ Pháp môn có Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền.

Sách LSQP NVC, bản 1996.

Trang 140: Cũng như các tôn giáo thửa xưa, trong giáo pháp của Ngài có hai khoa:

– Khoa CÔNG TRUYỀN TIỆM GIÁO để độ đại chúng lập công bồi đức.

– Khoa TÂM TRUYỀN ĐỐN GIÁO để dẫn dắt người hữu căn muốn tìm đường siêu xuất…., …. Ngoại giáo công truyền… Nội giáo tâm truyền … (148). (Hết trích).

Lưu ý 2: Pháp môn có cả Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền. Việc xếp ĐĐTKPĐ vào Ngoại giáo công truyền là mâu thuẫn nội tại, nên sai với sự thật. Giống như gọt chân cho vừa giày. (4)

 

3/ Khác biệt về cơ bút và đồng tử.

3.1/ Pháp lý về cơ bút của ĐĐTKPĐ.

Cơ bút của ĐĐTKPĐ do Hiệp Thiên Đài phụ trách, chỉ diễn ra tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh, với 16 đồng tử do Thượng Đế chọn và công bố danh sách. Chỉ có Hội Thánh Cao Đài có quyền cầu cơ và (Cửu Trùng Đài) phổ biến; cá nhân chỉ được cầu cơ học hỏi riêng, cấm phổ biến. (5)

3.2/ Cơ bút của Pháp môn.

Ngược lại, Pháp môn không có Hiệp Thiên Đài. Đồng tử do Ngài Chiêu chọn, không công bố danh sách, và các địa phương đều có quyền cầu cơ.

Lưu ý 3: Trang 19 sách LSQP NVC bản 1932: Trước hết nên biết trước rằng Ngài chẳng đồng ý kiến với ông Trung, Tắc và Cư, mà ông Cư lại là đồng tử phò loan mỗi khi có cầu cơ…

Do sự khác biệt rõ ràng về cơ bút và đồng tử; đồng thời Ngài Chiêu không chấp nhận đồng tử của Thượng Đế chọn. Chứng tỏ hai bên độc lập nhau cho nên ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn là sai.

4/ Theo Pháp Chánh Truyền và không theo Pháp Chánh Truyền.

Pháp Chánh Truyền là hiến pháp của ĐĐTKPĐ, lập ra Thánh Thể và quy định quyền hành Thánh Thể của Đức Chí Tôn. Hội Thánh Cao Đài hành đạo theo Pháp Chánh Truyền, cử các phẩm chức sắc theo hệ thống chính thống.

Ngược lại, Pháp môn không coi Pháp Chánh Truyền là hiến pháp, sửa đổi phẩm Chưởng Pháp và bổ sung chức sắc ngoài quy định. Chiếu Minh Đàn, Cần Thơ in ấn: LUẬT ĐẠO. Chương Thứ Hai. Luận về Chức sắc, trang 9.

… nay Đức Chí Tôn xưng là Thầy, nếu mình cử chức Giáo Sư e có phạm thượng, nghĩa là cử chức Chưởng Pháp cho đến Thông Sự: Nghĩa là Chưởng Pháp, Pháp Sư, Chủ Đàn, Giáo Thọ, Giáo Hữu, Lễ Sanh, Chánh Phó Trị Sự, Chánh Phó Thông Sự. (Hết trích)

Về giáo lý Pháp Chánh Truyền thể hiện: Tam Giáo Quy Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt; nhưng Pháp môn không chấp nhận.

ĐĐTKPĐ và Pháp môn khác biệt rõ ràng về pháp luật và giáo lý; cho nên là hai hệ thống độc lập nhau. Việc ghép đôi lại là sai.

 

5/ Khác biệt về tổ chức và nhân sự hành đạo:

5.1/ ĐĐTKPĐ.

ĐĐTKPĐ tổ chức theo Pháp Chánh Truyền Có Bát Quái Đài (Lập pháp), Cửu Trùng Đài (Hành pháp) và Hiệp Thiên Đài (Tư pháp).

Về giáo lý: thực hiện Tam Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt, xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do.

Về tâm linh: theo Luật Nhứt Thân Tam Thể.

Hành Chánh Tôn Giáo có 05 cấp: giúp người Đạo tự chủ về niềm tin, không để bất kỳ ai thao túng đức tin. Tự chủ trước quyền lực chính trị hay đảng phái.

Phước Thiện: Giúp người Đạo không bị ràng buộc trong cơm áo gạo tiền, tự lo cuộc sống vật chất cho nhau. Giúp cho Hội Thánh Cao Đài tự chủ về kinh tế, tài chánh khi hành đạo không phải đi ăn xin.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh: Tự chủ trong cuộc sống, xây dựng một hệ thống pháp quyền thể hiện Tự do trong đạo đức, Dân chủ có nhân quyền để duy trì sự công bằng và hòa hợp. Đây là cơ chế lập quyền cho hạ tầng làm cho DÂN MẠNH, thể hiện Ý DÂN LÀ Ý TRỜI.

Nhân sự hành đạo: phải phế đời hành đạo.

Đạo Nghị Định Thứ Năm (1930), Điều thứ nhứt: Buộc cả Chức sắc thọ phong phải phế đời hành đạo. (Hết trích).

Đạo Luật Mậu Dần (1938). Điều III. Mục số 7: Nếu như một ai còn đương quyền Đời mà muốn vào hàng phẩm Chức Việc, thì phải từ bỏ quyền Đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhậm Đạo. (Hết trích).

Tóm lại: Cơ cấu tổ chức và nhân sự hành đạo của ĐĐTKPĐ vận hành theo nguyên lý Nhất Nguyên Đa Cực. Sự đa dạng trong tổ chức tạo điều kiện để cá nhân và cộng đồng đóng góp vào sự phát triển xã hội.

5.2/ Pháp môn.

Hệ thống tổ chức của Pháp môn, không có ba Đài, không theo Pháp Chánh Truyền, không lập Hội Thánh, không có Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh (Chánh Trị Đạo). Theo quan sát của Tôi có: Tổ đình (Cần Thơ), Các Họ Đạo, Các Đàn Chánh…

Nhân sự hành đạo: không phế đời hành đạo.

Pháp môn lập năm 1924, nhưng Ngài Chiêu không phế đời hành đạo, tiếp tục làm quan cho đến tháng 12-1931 (Chủ khảo kỳ thi ngạch Tri huyện tỉnh Tân-An). LSQP NVC không viết rõ khi nào Ngài Chiêu về hưu.

Đến ngày 18-4-1932 thì liễu đạo. (4)

Về logic: Hai hệ thống có sự khác biệt rõ ràng về tổ chức và nhân sự hành đạo, thì chúng phải được phân biệt độc lập. ĐĐTKPĐ tổ chức theo Pháp Chánh Truyền và nhân sự phải ‘phế đời hành đạo’, trong khi Pháp môn không tuân theo Pháp Chánh Truyền và nhân sự không ‘phế đời hành đạo’. Sự khác biệt này, chứng tỏ hai tổ chức độc lập nhau. Việc ghép đôi lại là sai vì nó không phản ánh đúng bản chất của mỗi bên.

 

6/ ĐĐTKPĐ kỉnh lễ Thượng Đế khác với Pháp môn Chiếu Minh.

Ngày 25-02-1926 (TNHT, Q1, trang 10,1972). Thượng Đế dạy.

Lạy Thầy tổng cộng 12 lạy. Mỗi lần cúi mình xuống, gật đầu 4 lần, mỗi lần gật đầu tính là 1 lạy.

Khi cúi mình xuống lần thứ hai, tiếp tục gật đầu 4 lần như trước.

Lần thứ ba cúi mình xuống, cũng gật đầu 4 lần.

(Mỗi lần gật đầu, niệm thầm câu chú: Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát. Có 12 lần gật đầu, 12 lần niệm). Số 12 là số riêng của Thượng Đế.

Sách LSQP NVC, bản 1996, trang 123: chư nho bổn đạo phải niệm nho nhỏ “Nam Mô Nam Phương Giáo Chủ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” 10 lần; nhiều càng tốt. Hể niệm phải nhìn Thiên Nhãn … (Hết trích).

ĐĐTKPĐ và Pháp môn kỉnh lễ Thượng Đế khác biệt về số lần lạy, số lần niệm, câu niệm và cách niệm chứng tỏ hai tổ chức hoạt động độc lập.

 

7/ Ngài Chiêu hợp tác và bị trục xuất.

Sau ngày 28-01-1926 ĐĐTKPĐ hợp tác với ông Ngô Văn Chiêu.

Ngày 26-4-1926 có cuộc Thiên phong đầu tiên tại nhà Ngài Lê Văn Trung đường Tổng Đốc Phương (Chợ Lớn). Ngài Chiêu đến thấy đông người thì bỏ về.

Đạo Sử Quyển 1, trang 94: (1) Ông Ngô Minh Chiêu đáng lẽ phải đắc phong Giáo Tông chánh vị, nhưng tiếc thay ngày lập Ðàn Thiên Phong ông Chiêu đến thấy đông người ông sợ bỏ ra về, vì vậy mà ông không được phong Giáo Tông, và về sau mất hẳn phẩm (hết trích).

Sách LSQP NVC bản 1932, trang 19, 20 và 21 viết Ngài Chiêu bị trục xuất. (4)

Nhà báo Nam Đình Nguyễn Thế Phương có dự đàn cơ đêm 26-4-1926 viết thư cho Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (1955) nhắc lại chi tiết việc Ngài Chiêu bị trục xuất khỏi ĐĐTKPĐ. (4 bis).

Trước khi hợp tác, hai bên đã có nền tảng riêng. Hợp tác chỉ có ba tháng và kết thúc bằng việc Ngài Chiêu bị trục xuất, điều này chứng tỏ ĐĐTKPĐ và Ngài Chiêu độc lập nhau. Việc ghép đôi hai bên là sai, vì nó không phản ánh đúng thực tế lịch sử.

Tóm lại: từ nhân chứng cho đến các dữ kiện qua bảy mục trên đã chứng minh ĐĐTKPĐ và Pháp môn độc lập nhau.

 

III/ Giáo Sư Janet Hoskins ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn.

Giáo Sư Janet Hoskins đã ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn và phân vai thành Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền. (7).

Bài Tiếng Việt: Con Người và Khả Năng Sáng Tạo Thần Học của Phạm Công Tắc (trang 06-09) (1)

Trang 07: Thay vì vậy, ông về hưu ở Cần Thơ, nơi ông dạy các tín đồ khác về môn phái mà sau này được biết đến là “phái vô vi” (cũng được gọi là nội giáo tâm truyền) ... (Hết trích)

Trang 07: Phái phổ độ của Đạo Cao Đài (hay ngoại giáo công truyền) đi theo hướng hoàn toàn trái ngược: các đàn Tuần hành được tổ chức để tuyển hàng ngàn thành viên mới, lập quy định dễ dàng hơn cho hầu hết các tín đồ (ăn chay mười ngày trong tháng), … (Hết trích)

Bài Tiếng Anh: A Posthumous Return from Exile: The Legacy of an Anticolonial Religious Leader in Today’s Vietnam (trang 225-229) (2)

Trang 226: Instead, he retired to Cần Thơ, where he instructed a few other disciples in what came to be known as the “esoteric branch” (phái vô vi, also called nội giáo tâm truyền). …. (Hết trích)

Trang 226: Caodaism in its exoteric branch (phổ độ or ngoại giáo công truyền) was to go com pletely in the opposite direction: Demonstration séances were organized to recruit thou sands of new members, more relaxed rules (10 vegetarian days a month) … (Hết trích)

Trong trích đoạn trên có ba cái sai căn bản.

1- Sai sự thật.

Nhân chứng và dữ kiện lịch sử đã xác định ĐĐTKPĐ và Pháp môn có bảy khác biệt căn bản (tại II), gồm: nguồn gốc, lịch sử và nhiệm kỳ; hình thức và nội dung; cơ bút và đồng tử; theo Pháp Chánh Truyền và không theo Pháp Chánh Truyền; tổ chức và nhân sự hành đạo; cách kỉnh lễ Thượng Đế; và Ngài Chiêu bị trục xuất. Những khác biệt căn bản này chứng minh sự độc lập giữa hai hệ thống.

Giáo sư Janet Hoskins ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn là sai với các chứng cứ chính thống nên dẫn đến sai sự thật.

2/ Sai về quan điểm và mâu thuẫn nguyên tắc phân định.

Việc ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn làm sai lệch bản chất độc lập của cả hai hệ thống và không phản ánh đúng thực tế lịch sử.

ĐĐTKPĐ qui định nhân sự tôn giáo từ bỏ quyền đời để toàn tâm phụng sự đạo, tránh xung đột lợi ích, nhưng lại bị xếp vào Ngoại giáo công truyền hoặc Phái Phổ Độ. Ngược lại, Pháp môn cho phép lãnh đạo tôn giáo đảm nhiệm chức quan, nhận lương nhà nước, song hành với lợi ích nhà nước nhưng lại được xếp vào Nội giáo tâm truyền, Phái Vô Vi.

Việc phân vai như vậy chưa phản ánh đầy đủ thực tế, dẫn đến mâu thuẫn trong nguyên tắc phân định tôn giáo. Cách tiếp cận này giống như cái giường của vua Procrustes; một sự áp đặt khuôn mẫu cứng nhắc, không phù hợp với thực tế.

3/ Mâu thuẫn logic:

Giáo sư phân vai ĐĐTKPĐ là Ngoại giáo công truyền và Pháp môn là Nội giáo tâm truyền; trong khi Pháp môn có cả Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền. Như vậy Giáo sư đã tự mâu thuẫn trong cách lập luận.

Trích đoạn trên đây còn hai điều sai nữa.

Giáo sư viết: Thay vì vậy, ông về hưu ở Cần Thơ, … là sai sự thật. Vì khi không nhận phẩm Giáo Tông (26-4-1926) Ngài Chiêu vẫn tiếp tục làm quan. Tháng 12-1931 Ngài Chiêu làm Chủ khảo kỳ thi ngạch Tri huyện tại tỉnh Tân An. Đến 18-4-1932 thì mất ở Cần Thơ.

Giáo sư viết: Ngoại giáo công truyền lập quy định dễ dàng hơn cho hầu hết các tín đồ (ăn chay mười ngày trong tháng), là sai sự thật. Vì Luật Đạo của Chiếu Minh Đàn Cần Thơ (1932), Chương IV, Điều 4, qui định nhập môn rồi thực hành trai kỳ (6 hoặc 10 ngày chay mỗi tháng) và trường trai; giống như Tân Luật, của ĐĐTKPĐ, Điều 12 ban hành năm 1927.

Hậu quả.

Giáo Sư Janet Hoskins giảng dạy ở đại học, vì vậy công trình nghiên cứu của bà ảnh hưởng đến sinh viên, đến giới học thuật và hội thảo quốc tế về ĐĐTKPĐ, dẫn đến hai hậu quả rõ ràng:

Nội dung nghiên cứu sai lệch đã khiến sinh viên, các học giả, hội thảo tiếp nhận thông tin không chính xác, dẫn đến hiểu sai về bản sắc ĐĐTKPĐ.

Bài nghiên cứu sai lệch trở thành tài liệu tham khảo, tạo ra hiệu ứng “Dĩ hư truyền hư” làm sai lệch nhận thức về bản sắc ĐĐTKPĐ trong giới học thuật và công chúng.

 

IV/ Kết luận.

Từ nhân chứng đến dữ kiện đã chứng minh ĐĐTKPĐ và Pháp môn Chiếu Minh là hai tổ chức độc lập nhau. ĐĐTKPĐ có Thể pháp và Bí pháp, nhiệm kỳ 700.000 năm. Pháp môn có Ngoại giáo Công truyền và Nội giáo Tâm truyền, nhiệm kỳ 1.500 năm.

Giáo sư Janet đã ghép đôi ĐĐTKPĐ với Pháp môn Chiếu Minh Tam Thanh và phân vai ĐĐTKPĐ là “Ngoại giáo Công truyền” và Pháp môn là “Nội giáo Tâm truyền”. Giáo sư Janet đã mắc ba lỗi căn bản: sai sự thật, sai về quan điểm và mâu thuẫn trong lập luận.

Luận điểm trên đây của Giáo sư Janet sai với lịch sử và giáo lý ĐĐTKPĐ. Nó làm mất đi bản sắc ĐĐTKPĐ là một tôn giáo kết hợp tính truyền thống và hiện đại để phụng sự nhân loại trong thời đại khoa học kỹ thuật theo Luật Cung-Cầu.

Người Đạo Cao Đài lấy Bi-Trí-Dũng làm nền tảng, Tín đồ có trách nhiệm gìn giữ và làm rõ bản sắc trong lành của ĐĐTKPĐ. Tôi và hiền muội Victoria sẵn sàng trả lời, tham gia hội luận, hội thảo để làm rõ sự thật nầy./.

 

__________________

Chú thích:

(1) https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/01/5624-con-nguoi-va-kha-nang-sang-tao.html#more

(2) PosthumousReturnfromExileKyoto2012.pdf

(3) https://vietnamthoibao.org/vntb-phap-mon-chieu-minh-co-quan-pho-thong-giao-ly-nguoi-mu-so-voi/

(4) https://vietnamthoibao.org/vntb-co-quan-pho-thong-giao-ly-che-giau-viec-ngai-ngo-van-chieu-bi-truc-xuat/

(4 bis) https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2015/02/220-mung-ngay-au-nam.html#more

(5) https://vietnamthoibao.org/vntb-phep-thu-ve-co-but-trong-dao-cao-dai/

(6) https://vietnamthoibao.org/vntb-hue-khai-khoe-sung-tho/

(7) https://vietnamthoibao.org/dai-dao-tam-ky-pho-do-va-phap-mon-doc-lap-nhau/

 


 

Tin bài liên quan:

VNTB – Pháp Môn Chiếu Minh & Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý: Người mù sờ voi

Bùi Ngọc Dân

VNTB – Phản đồ Nguyễn Thành Tám và Chi phái 1997 không có thánh danh

Phan Thanh Hung

VNTB – Báo cáo vi phạm tự do tôn giáo của Khối Nhơn Sanh: đúng cách và kịp thời

Phan Thanh Hung

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Việt Nam Thời Báo