Định Tường
(VNTB) – Tôn giáo nội sinh như Bửu Sơn Kỳ Hương thì sao lại phải ra tòa?
Một cựu thẩm phán nhận xét rằng nếu đối chiếu điều 24, điều 25, điều 28 của Hiến pháp, và điều 331 Bộ luật hình sự thì ông thấy vụ án “tịnh thất Bồng Lai” có thể là một vụ án oan hình sự dành cho những người tự tu hành tại gia theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, vốn có từ gần trăm năm trước ở miền Nam.
“Giáo hội Phật giáo Việt Nam, theo tôi, không nên lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để buộc các giáo phái khác ngoài sự giám sát của giáo hội phải quy phục về một mối để dễ bề quản lý tín ngưỡng như một cỗ máy hành chính. Vì điều đó sẽ là chính mình xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng chứ phải không ai khác” – vị cựu thẩm phán, nói.
Làm lành, tránh dữ
Bửu Sơn Kỳ Hương (Hương lành núi báu) được chọn đặt tên cho tôn giáo bản địa do Phật Thầy (tục danh Đoàn Văn Huyên) sáng lập vào thế kỷ XIX. Lập đạo trong bối cảnh rối ren, Bửu Sơn Kỳ Hương đã dự phần vào những biến động lịch sử của vùng đất Nam bộ. Một không gian sinh hoạt của những cư dân thuần phác, hào hiệp “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã” mà ngày nay được xem là đức tính đặc trưng.
Sách sử của tỉnh Đồng Tháp kể, vào khoảng năm 1849, miền Lục Tỉnh bị nạn dịch tả hoành hành làm dân chết vô số kể. Trong lúc dân chúng khắp nơi sống trong lo sợ thì chợt xuất hiện một kỳ nhơn có tài chữa khỏi căn bệnh thiên thời đó là ông Đoàn Minh Huyên, người gốc ở thôn Tòng Sơn, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành (nay là xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Ngoài việc chữa bệnh, ông Huyên còn rao giảng phép tu tập, làm lành lánh dữ, giữ trọn “Tứ Ân” (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại). Người đến qui y rất đông. Những người qui y được phát cho một “lòng phái” bằng giấy vàng hoặc giấy bạch, trên có 4 chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Từ đó, ông Đoàn Minh Huyên được coi là người sáng lập ra phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
Năm Canh Tuất (1850), khi biết tin Đức Phật Thầy Tây An được nhà cầm quyền tỉnh An Giang cho phép vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ giã mẹ, tìm đến tận nơi xin quy y. Với phẩm chất từ lương điềm đạm, ông được Phật Thầy thâu nhận. Hơn một năm sau, ông Ngoạn được Đức Phật Thầy gọi về núi Sam hiệp cùng ông Đạo Thạch để giúp Ngài trong việc trị bệnh cho dân và coi sóc các việc trong chùa Tây An.
Ông Đạo Ngoạn theo học đạo với Phật Thầy được gần 4 năm thì được Thầy dạy phải trở về bổn quán để báo hiếu mẹ già và tìm nơi lập gia thất sanh con nối dõi.
Hành trang ông Ngoạn mang theo về Trà Bông là những giáo lý mà Thầy truyền dạy cùng với một lọn tóc mà Đức Phật Thầy trao tặng lúc Ngài bị buộc phải thế phát xuất gia theo phái Lâm Tế để giữ làm kỷ niệm. Lọn tóc ấy được ông xem như báu vật suốt chặn đường hành đạo và được Triều Âm Tự (chùa ông Chín) gìn giữ bảo vệ cho đến ngày nay.
Cưới vợ, lập chùa và hành đạo
Ngày rằm tháng bảy năm Giáp Dần (1854) ông Ngoạn về Trà Bông gặp lại mẹ. Sau đó ông xin phép mẹ cưới vợ và lập một ngôi chùa tại vàm Trà Bông. Từ ấy chuyên lo chữa bệnh và truyền đạo.
Gọi là chùa nhưng thực chất đây là nơi ông Đạo Ngoạn truyền bá đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Phật Thầy Tây An, hướng dẫn dân chúng lập trại ruộng, khai hoang phục hóa vùng ven Đồng Tháp Mười và chữa bệnh cho dân chúng. Ông hướng tín đồ niệm Phật tu nhơn, khai phá được hơn 500 công đất. Sau đó không lâu, chùa bị phát hỏa cháy sạch, kế đến là việc mấy tỉnh Nam Kỳ bị giặc Pháp đánh chiếm. Trong cơn binh biến, Ông Đạo Ngoạn cùng với tín đồ phải bỏ chùa tìm phương lánh nạn.
Năm 1867, ông Ngoạn trở về lại Trà Bông quy tập bổn đạo dựng lại chùa xưa, tiếp tục bốc thuốc chữa bệnh cho dân và quy tụ được rất đông tín đồ rao giảng giáo lý Tứ Ân, trong đó ân nước được đặt ra trước tình cảnh đất nước đang bị nạn ngoại xâm. Chùa Trà Bông trở thành nơi các thân hào yêu nước quy tập để bàn chuyện chống giặc.
Năm Giáp Tuất (1874), bệnh thời khí lại hoành hành nhiều nơi làm cho dân chúng lo lắng bất an, hương chức làng Nhị Mỹ thấy vậy bèn hội nhau đến chùa Trà Bông thỉnh ông ra tay chữa bệnh cứu dân.
Tài chữa bệnh của ông đã cứu sống rất nhiều người. Bên cạnh chữa trị cho dân, ông Ngoạn còn ra sức khuyên răng dân chúng làm lành lánh dữ, không hợp tác với giặc Pháp và báo đáp Tứ Ân.
Giặc Pháp ở Định Tường thấy chùa quy tụ đông người lấy làm lo lắng, sợ rằng nơi đây lại trở thành địa điểm quy tụ nghĩa quân chống lại chánh quyền mới của chúng nên ra lịnh cho nhà chức trách ở Sa Đéc theo dõi, nếu thấy có dấu hiệu hội dân làm loạn thì lập tức bắt ngay.
Tuy nhiên, giới cầm quyền ở đây do cảm phục uy đức của ông Đạo Ngoạn nên họ họp nhau hiến kế, đem Sắc thần của đình Nhị Mỹ thỉnh về thờ tại hậu tổ của chùa Trà Bông rồi báo với quan tỉnh Định Tường rằng dân chúng tụ họp ở chùa Trà Bông chỉ để cúng thần cầu an chớ không phải hội kín. Thấy không có chứng cớ gì để ngăn cấm, thực dân Pháp mới để yên. Từ đó đến nay, Sắc thần đình Nhị Mỹ vẫn để tại chùa Trà Bông.
“Tịnh thất Bồng Lai” – một phiên bản của “chùa Ông Chín”
Ngày 19 tháng 02 âm lịch năm Canh Dần (1890) ông Đạo Ngoạn qua đời, thọ 70 tuổi, tín đồ thương tiếc tựu nhau chôn cất ông theo đúng giáo lý của Đức Phật Thầy. Sau khi ông Đạo Ngoạn qua đời, chùa tiếp tục được Nguyễn Thị Huê (là người vợ thứ 3 của ông) và bổn đạo coi sóc. Ông Đặng Công Hứa (Chín Hứa con trai của ông) cũng được ông Ngoạn và bà Huê truyền dạy giáo pháp và phương cách chữa bệnh nên chùa Trà Bông vẫn quy tụ được đông đảo tín đồ.
Đến khi ông Chín Hứa thay thế trụ trì ngôi chùa ông đặt tên mới cho chùa là Triều Âm Tự. Căn cứ vào bức hoành phi chữ Nho bằng gỗ sơn son do chính tay ông Chín Hứa viết, có đề phần lạc khoản “ất mão niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt” (ngày 12 tháng 8 năm Ất Mão – 1915) có thể ước tính ngôi chùa đã được tu sửa lần gần đây nhất cũng đã trên 100 năm. Ngoài tên gọi Triều Âm tự ít người biết, dân gian vẫn quen gọi đây là “chùa Ông Chín” bởi đức độ và tài năng của ông Chín cũng không kém ông Đạo Ngoạn…
Ông Lê Tùng Vân cùng các đệ tử của mình trong vụ án “tịnh thất Bồng Lai” là một người tu hành theo cách của Bửu Sơn Kỳ Hương, nên nếu nhà chức trách cùng với hai vị chức sắc tôn giáo đang là trụ trì chùa Giác Ngộ (TP.HCM), chùa Thiên Châu (Long An) thấy không được hài lòng, thì cũng nên lưu ý rằng Điều 24 của Hiến pháp bảo hộ quyền tu hành theo tôn giáo nội sinh như Bửu Sơn Kỳ Hương.
Nói rộng hơn về tôn giáo nội sinh như Bửu Sơn Kỳ Hương, đó là sự kết nối tâm linh bằng trực cảm hướng thiện của người dân một vùng miền vốn bắt nguồn từ xa xưa với những bài học được trả giá lắm khi bằng chính mạng sống con người. Hiểu được điều này thì sẽ rõ hơn lịch sử của vùng đất Nam Kỳ, nhận ra nhiều giá trị hơn từ những cộng đồng người vốn gắn bó với nơi này không phải bằng độ dày của thời gian mà bằng chiều sâu nhân ái và độ mở của nghĩa khí.