Thảo Vy
(VNTB) – Nếu Việt Nam không góp vốn cổ đông vào AIIB bằng “tiền tươi thóc thật”, mà là được Trung Quốc cho “góp khống” – từ của Thống đốc Bình là số vốn được phân bổ, thì sẽ còn nhiều hơn nữa kiểu mở cửa cho Trung Quốc tràn vào Việt Nam để khai thác bô xít ở Tây nguyên, cảng nước sâu Sơn Dương (dự án Formosa), nhiệt điện Duyên Hải (Trà Vinh)…
Ngày 29-6-2015, tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh (Trung Quốc), Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng châu Á (AIIB) đã diễn ra lễ ký Điều lệ Hoạt động của ngân hàng. Thoạt đầu, dư luận khá bất ngờ khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ông Nguyễn Văn Bình tuyên bố rằng Việt Nam là thành viên sáng lập của AIIB.
Sở dĩ gọi là “thoạt đầu”, vì theo con số của Bộ tài chính Trung Quốc đưa ra, là có tới 57 thành viên sáng lập AIIB. Vốn góp của Việt Nam hiện chưa thấy công bố, và được Thống đốc Nguyễn Văn Bình trả lời lấp lửng: “Với tư cách cổ đông sáng lập, có số vốn được phân bổ, Việt Nam cũng có điều kiện để tham gia các vị trí điều hành của Ngân hàng, như Giám đốc điều hành, Giám đốc điều hành phụ khuyết trong thời gian tới”.
“Không gì đáng ngại” (!?)
Nhiều chuyên gia và nhà hoạch định chính sách nhìn nhận AIIB theo cách được mất ngang nhau.
Thứ nhất, các tổ chức viện trợ phải có trách nhiệm đối với các cổ đông của họ. Nếu AIIB được coi là bị Trung Quốc chi phối quá mức, các thành viên khác sẽ chuyển sự chú ý sang nơi khác, lấy đi của tổ chức này nguồn lực, sự chú ý và nhân viên trình độ cao. Không có kịch bản khả thi nào trong đó AIIB có thể thay thế các tổ chức đang tồn tại như Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), trừ khi tổ chức này phản ánh một cách phù hợp những sự quan tâm và lợi ích của cộng đồng quốc tế rộng hơn.
Thứ hai, việc duy trì các tiêu chuẩn quản lý và trách nhiệm trong viện trợ phát triển là vô cùng khó khăn, đặc biệt khi làm việc với những nước đang phát triển tương đối thành công mà có thể lựa chọn từ một loạt nguồn tài chính đa phương, song phương và tư nhân. Vì lý do này, sự ra đời của AIIB như một nguồn vốn bổ sung ở châu Á không thể tạo ra một sự khác biệt đáng kể trong những tiêu chuẩn xã hội và môi trường. Nếu Trung Quốc thực sự tìm cách giảm chất lượng và điều kiện của các cơ quan viện trợ đang tồn tại, nước này có thể làm vậy một cách ranh mãnh hơn thông qua viện trợ song phương, và các hoạt động ngoài nước của những công ty thuộc sở hữu nhà nước.
Chủ nghĩa đa phương sẽ điều chỉnh
Một khi cơ sở hạ tầng tốt hơn ở châu Á, sẽ đồng nghĩa với nhiều cơ hội hoạt động kinh tế và kinh doanh hơn không chỉ cho các công ty Trung Quốc mà còn cho các công ty Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Chắc chắn, một số cơ sở hạ tầng nào đó có thể được thiết kế nhằm đem lại những lợi ích không đồng đều cho các nước cụ thể: chẳng hạn, đường sá và đường ống dẫn trực tiếp hướng tới Trung Quốc.
Tuy nhiên, chủ nghĩa đa phương sẽ vẫn khiến Trung Quốc khó khăn hơn trong việc công khai thao túng các dự án do AIIB tài trợ. Một lý do quan trọng khiến Mỹ thiết lập các thể chế đa phương sau Chiến tranh thế giới thứ Hai là để làm yên lòng các đồng minh của mình rằng tiếng nói của họ sẽ được lắng nghe và rằng Mỹ sẽ không tìm cách đơn phương chi phối. Chủ nghĩa đa phương không chỉ nâng cao mà còn kiềm chế khả năng của các nước hùng mạnh đạt được điều họ muốn. Bất chấp những hạn chế của việc hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ kể từ cuối Chiến tranh thế giới thứ Hai, sự chú trọng vào chủ nghĩa đa phương của nước này đã là một thành công vang dội.
Hãy lấy thương mại làm ví dụ. Trước những năm 1930, chính sách đối ngoại của Mỹ đã dao động giữa đóng và mở cửa tùy thuộc vào việc đảng chính trị nào kiểm soát Quốc hội. Cấu trúc thương mại hiện nay, ban đầu dựa trên Thỏa thuận chung về Thuế quan và Thương mại, và gần đây hơn là Tổ chức Thương mại Thế giới và một loạt dàn xếp khu vực, ngăn chặn những dao động mạnh như vậy. Nó cũng chắc chắn có lợi cho những lợi ích kinh tế của Mỹ bằng cách duy trì dòng chảy thương mại quốc tế tự do.
Lô-gích tương tự cũng áp dụng với AIIB. AIIB có thể sẽ đem lại cho Trung Quốc một số lợi thế quan trọng gần giống với những gì mà lần lượt Mỹ và Nhật Bản đã có được trong WB và ADB.
Tuy nhiên, Trung Quốc cũng sẽ bị các thành viên khác của thể chế này kiềm chế. Những lợi thế cấu trúc mà Trung Quốc có được trong AIIB sẽ chỉ có lợi chừng nào các thành viên khác coi trọng thể chế này và cung cấp vốn, nhân lực lành nghề và sự hợp tác. Nếu thể chế này được nhìn nhận là bất công hoặc không minh bạch, nó sẽ trở nên không khác gì một tổ chức vỏ bọc thông qua đó Trung Quốc giải ngân viện trợ nước ngoài song phương.
Nói cách khác, Trung Quốc có một lựa chọn cơ bản. Nước này có thể tạo ra một AIIB cùng có lợi, phản ánh những mối lo ngại lớn hơn của các thành viên, và có lẽ đại diện nhiều hơn cho những lợi ích của Trung Quốc một cách khiêm tốn. Nếu, thay vào đó, Trung Quốc tìm cách chi phối AIIB, thể chế này sẽ không còn thích hợp.
Trung Quốc sẽ mua đứt Việt Nam bằng tiền?
Trở lại với câu trả lời của Thống đốc Nguyễn Văn Bình. Ông cho biết: “Việc Việt Nam tham gia làm thành viên sáng lập của AIIB là phù hợp với chủ trương, đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về việc Việt Nam chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Ông nói với báo chí rằng việc ký kết với AIIB là “thể hiện thiện chí, mong muốn của Việt Nam trong việc xây dựng, duy trì, vun đắp môi trường thuận lợi cho việc hợp tác mọi mặt về kinh tế, thương mại, đầu tư với Trung Quốc”.
Ông lý giải một nguyên nhân nữa cho việc phải nhờ đến nguồn vốn của Trung Quốc là: “Trong thời gian vừa qua, các tổ chức tài chính quốc tế lớn như WB, ADB, chính phủ các nước cũng đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong lĩnh vực này, tuy nhiên, theo quy định của WB và ADB, nguồn vốn ưu đãi dành cho Việt Nam thời gian tới sẽ ngày càng hạn hẹp vì Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Do vậy, với việc tham gia làm cổ đông của AIIB, chúng ta bổ sung được một nguồn quan trọng để thu hút đầu tư vào cơ sở hạ tầng của đất nước”.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình tự tin cho rằng một khi tham gia AIIB với tư cách là cổ đông sáng lập, Việt Nam có thêm nhiều quyền ưu đãi, bao gồm quyền tham gia việc hoạch định và xây dựng chính sách của ngân hàng này ngay từ đầu và trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng, từ đó thể hiện được tiếng nói của Việt Nam cũng như các cổ đông có quy mô nhỏ khác trong ngân hàng này.
“Hơn nữa, với tư cách cổ đông sáng lập, có số vốn được phân bổ, Việt Nam cũng có điều kiện để tham gia các vị trí điều hành của Ngân hàng, như Giám đốc điều hành, Giám đốc điều hành phụ khuyết trong thời gian tới. Thông qua việc trực tiếp tham gia điều hành ngân hàng như vậy, vai trò và vị thế của Việt Nam tại Ngân hàng cũng được nâng cao”. Thống đốc Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh.
Nhớ lại. Trao đổi với báo chí sáng 9-6-2015, Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng chia sẻ, nhiều người dân đã nhắn tin, gọi điện hỏi tại sao phải mua tàu điện Trung Quốc cho dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông (Hà Nội). Theo Bộ trưởng Thăng, dự án được thực hiện bằng nguồn vốn tín dụng của Trung Quốc, theo hiệp định ký giữa Chính phủ hai nước từ năm 2008. Với phương thức tổng thầu EPC nên Việt Nam phải sử dụng nhà thầu Trung Quốc và các gói thầu cung cấp trang thiết bị từ nước này.
Dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông cũng tương tự như các dự án sử dụng ODA của Nhật Bản hay Hàn Quốc khác đều sử dụng nhà thầu, tư vấn thiết kế, giám sát, thi công, cung cấp thiết bị từ nước cho vay vốn. “Nhà thầu Trung Quốc rất yếu kém, nhiều lần tôi muốn thay thế song không thể vì ràng buộc các điều kiện hiệp định vay vốn. Do đó, rất mong mọi người chia sẻ”, Bộ trưởng Thăng nói.
Từ câu chuyện của Bộ trưởng Thăng, có lo ngại rằng: nếu Việt Nam không góp vốn cổ đông vào AIIB bằng “tiền tươi thóc thật”, mà là được Trung Quốc cho “góp khống” – từ của Thống đốc Bình là số vốn được phân bổ, thì sẽ còn nhiều hơn nữa kiểu mở cửa cho Trung Quốc tràn vào Việt Nam để khai thác bô xít ở Tây nguyên, cảng nước sâu Sơn Dương (dự án Formosa), nhiệt điện Duyên Hải (Trà Vinh)…