Việt Nam Thời Báo

VNTB – Vĩnh biệt giáo sư Phạm Phụ – nhà phản biện giáo dục và chính trị

Hàn Lam

(VNTB) – Giáo sư Phạm Phụ nổi tiếng là chuyên gia phản biện chính sách giáo dục đại học ở Việt Nam.

Giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân Phạm Phụ sinh năm 1937, tại xã Đức Phong, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Ông từ trần lúc 23g ngày 13-10. Linh cữu quàn tại 200/13 Nguyễn Trọng Tuyển, phường 8, quận Phú Nhuận, TP.HCM. Lễ động quan lúc 6g ngày 16-10. Linh cữu được hỏa táng tại Trung tâm hỏa táng Bình Hưng Hòa.

15 năm trước đây, giáo sư Phạm Phụ đã nổi tiếng trong giáo giới, được biết đến là chuyên gia phản biện sắc sảo tại các hội thảo, diễn đàn về giáo dục đại học. Các vấn đề “hội đồng trường”, “tự chủ đại học” hiện đang còn là chủ đề nóng, nhưng ông đã nghiên cứu sâu từ năm 2000. Ông là một trong những người đầu tiên kiến nghị xây dựng cơ chế hội đồng trường ở trường đại học, cần xem dịch vụ giáo dục đại học là loại “hàng hóa đặc biệt” và có sự can thiệp của Nhà nước.

Xin được trích giới thiệu một tham luận từ năm 2017 của giáo sư Phạm Phụ tóm tắt 5 kinh nghiệm quốc tế mà theo giáo sư, có ý nghĩa then chốt nhất, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của “Hội đồng trường” trong tự chủ đại học.

Lưu ý, các vấn đề mà giáo sư Phạm Phụ đặt ra có thể là không mới nếu so với sự phát triển của giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa, song với nền giáo dục xã hội chủ nghĩa thì các ý kiến này của giáo sư Phạm Phụ còn mang giá trị của vấn đề thể chế chính trị.

Xin được giới thiệu như một tham khảo với độc giả trang Việt Nam Thời Báo.

Kinh nghiệm 1: Mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học nên có một “phổ” khá rộng tùy theo các loại hình và năng lực của các cơ sở đó.

Trên thế giới, hệ đại học Anh Mỹ có mức độ tự chủ đại học cao nhất (sau đó là đến hệ đại học châu Âu và đại học châu Á có mức độ tự chủ thấp nhất, trừ trường hợp của Singapore).

Tuy vậy, ở Mỹ, mức độ tự chủ đại học cũng có một phổ khá rộng, từ mức nhà nước chỉ giám sát (state supervising) ở các đại học nghiên cứu cho đến mức nhà nước kiểm soát (state control) ở các cao đẳng cộng đồng.

Ở Việt Nam, cơ sở đại học rất đa dạng về chủ sở hữu, về năng lực và đặc điểm. Vì vậy nhà nước cần có nhiều mức độ tự chủ khác nhau cho các cơ sở giáo dục đại học khác nhau.

Kinh nghiệm 2: Có đến 7 nội dung trong tự chủ đại học và thường nhà nước cũng can thiệp với mức độ khác nhau trong các nội dung đó.

Có đến 7 nội dung trong tự chủ đại học: Một là, nghiên cứu và công bố (R&Pu); Hai là, nhân sự (Staff); Ba là, chương trình giảng dạy (C&T); Bốn là, chuẩn mực học thuật (Ac.S); Năm là, sinh viên (Stud); Sáu là, quản trị trường (Gov); Bảy là, hành chính và tài chính (A&F).

Trong đó, thường nhà nước cần can thiệp nhiều nhất vào nội dung A&F và Ac.S, như số lượng sinh viên, mức học phí, đóng cửa và sát nhập, kiểm định chất lượng, công nhận Accreditation, kiểm toán tài chính.

Mức độ can thiệp trung bình thường là R&Pu, Stud và C&T, như Chuẩn mực nhập học, Ưu tiên nghiên cứu.

Mức độ can thiệp ít nhất thường là Gov.& Staff như miễn/ bãi nhiệm Staff, Kiểm soát hội đồng khoa học.

Kinh nghiệm 3: Tự chủ đại học và Quản trị đại học với Hội đồng trường là 2 vế có tính “đánh đổi” (trade-off) như giữa quyền lợi và nghĩa vụ.

Trên thế giới ngày nay, loại hình trường đại học rất đa dạng, từ đại học nhà nước (State Univ.), đại học có liên quan đến nhà nước (State Related Univ.), đại học có tài trợ công – vận hành tư (Publicly fund – Privately run), đại học tư có tài trợ của nhà nước (Private State aided Inst.), đại học tư không vì lợi nhuận (Private non-profit), đại học nửa vì lợi nhuận (Private semi for profit), đến đại học vì lợi nhuận (private for profit) …

Vì vậy quan trọng là “Ai là người quản lý/ vận hành trường” mà không phải “Ai là người sở hữu trường”.

Và như luôn có vấn đề tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng. Kèm theo đó là vấn đề “chủ sở hữu cộng đồng” hay “chủ sở hữu khuyết danh”. Do đó thường có 2 cơ chế trong một tổ chức: a) Cơ chế Hội đồng và b) Cơ chế thực thi.

Cơ chế Hội đồng chính là Hội đồng trường (bản chất là hội đồng quản trị) và Cơ chế thực thi chính là Ban giám hiệu.

Hội đồng trường chính là cầu nối với chủ sở hữu cộng đồng. Và cũng vì vậy, người ta thường xem, giao tự chủ đại học và trách nhiệm xã hội (accountability) là giao cho Hội đồng trường chứ không phải giao cho Hiệu trưởng.

Nói một cách khác, nhà nước chỉ giao tự chủ đại học cho các cơ sở giáo dục đại học có Hội đồng trường.

Kinh nghiệm 4: Chức năng và các mối quan hệ của Hội đồng trường với Hiệu trưởng có ý nghĩa quyết định đến dự thành bại của quản trị cơ sở giáo dục đại học cũng như đảm bảo quyền tự chủ đại học.

Theo đó, chức năng cơ bản của Hội đồng trường là Quản trị và tạo ra “Sự thay đổi” (Make a change), còn chức năng cơ bản của cơ chế thực thi là Quản lý nhằm “giữ trong trật tự” (Keep in order).

Mối quan hệ giữa chủ tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng là mối quan hệ đồng cấp hỗ trợ nhau (Supportive peer). Có Hội đồng trường mới có tự chủ nhưng việc hoạt động đúng chức năng của 2 cơ chế này có ý nghĩa có tính quyết định của sự thành bại ở một cơ sở giáo dục đại học.

Kinh nghiệm 5: Cần có một Hội đồng trường đúng nghĩa

Một Hội đồng trường đúng nghĩa mới có thể đảm bảo quyền tự chủ đại học. Để có một Hội đồng trường đúng nghĩa, cần lưu ý: Cơ cấu cần đa dạng, già trẻ, trình độ chuyên môn, tính chất công việc, loại hình nghề nghiệp; Cần có thành phần bên ngoài trường lớn hơn thành phần bên trong trường, thành phần bên ngoài thường chiếm 50 – 60% số thành viên của Hội đồng trường;

Hội đồng trường chỉ ra quyết định trong các kỳ họp, ngoài các kỳ họp, các thành viên Hội đồng trường cũng như chủ tịch Hội đồng trường không can thiệp và ra lệnh đối với Hiệu trưởng cũng như các thành viên khác của nhà trường; Hội đồng trường là quan tòa cuối cùng của những mâu thuẫn nội bộ; Các thành viên Hội đồng trường cần có Training về chức năng và cách làm việc.

Do vậy, quá trình thực hiện tự chủ đại học thực chất là quá trình chuyển giao quyền lực, lâu nay phần lớn tập trung ở bộ chủ quản và Hiệu trưởng sang Hội đồng trường.

Nếu chúng ta không “thể chế hóa” chức năng và các mối quan hệ thì khó lòng mà thực hiện tự chủ đại học.


 

Tin bài liên quan:

VNTB – Gửi 270.000 tỷ tại ngân hàng thương mại kiếm lời để làm gì?

Do Van Tien

VNTB – Intel hủy bỏ kế hoạch sản xuất chip tại Việt Nam

Do Van Tien

VNTB – Thị trường chứng khoán ảm đạm kéo dài

Do Van Tien

1 comment

Nguyễn Tuấn Anh 16.10.2022 7:36 at 07:36

Vĩnh biệt vị trí thức đáng kính . Nhờ những người như ông mà nền giáo dục nước nhà đã có những tiến bộ đáng kể cả về chất lượng lẫn số lượng

Reply

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.