Kiên Phong
* Tác giả gửi bài trực tiếp cho VNTB
Theo hồ sơ vụ án, thì: cụ NGÔ THỊ QUÝ, sinh năm 1932. Sinh thời cư trú tại thôn Thanh Châu, xã Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, sinh được 3 người con: bà Ngô Thị Nhân, Ngô Thị Lệ, Ngô Thị Hiền, và nhận kế thừa của dòng họ Ngô 01 lô đất diện tích 1.525m2, trên đất có một số phần mộ của ông bà và căn nhà cấp 4, đã được UBND huyện Ninh Hòa (nay là thị xã) cấp giấy CNQSD đất năm 1991. Ngày 05-7-2004, cụ Quý qua đời không để lại di chúc.
Ngày 05-7-2005, nhân ngày giỗ đầu của cụ Quý, gia tộc họ Ngô đã họp và thống nhất lập “giấy thuận phân” giao cho bà Ngô Thị Hiền để giữ gìn mồ mả, giỗ tết cho ông bà. Tuyệt đối không được bán.
Ngày 01-11-2006, Ngô Thị Lệ và Ngô Thị Hiền lập văn bản thỏa thuận, giao toàn bộ lô đất và tài sản gắn liền với đất cho Ngô Thị Hiền toàn quyền sử dụng. Sau đó, cô Hiền đã tự ý sang nhượng cho ông Phan Hùng và vợ là Mai Thị Xuyến.
Do bà Lệ không chịu giao nhà đất, vì bà Lệ không bán nhà đất này, nên ông Hùng bà Xuyến kiện ra Tòa. Tại bản án sơ thẩm số 09 ngày 21-6-2012 của Tòa án thị xã Ninh Hòa do Thẩm phán, chánh án Lê Thị Toàn chủ tọa đã tuyên xử buộc bà Lệ, bà Hiền phải giao nhà đất cho ông Hùng bà Xuyến. Sau khi xét xử bà Lệ, bà Hiền kháng cáo.
Phát hiện tài sản của mẹ mình bị bà Hiền bán nhưng không cho mình biết, bà Nhân khiếu nại và tại bản án phúc thẩm số 88 ngày 14-12-2012 của Tòa án tỉnh Khánh Hòa do cấp sơ thẩm không đưa bà Nhân vào tham gia tố tụng nên đã xử hủy án sơ thẩm giao Tòa Ninh Hòa xử lại.
Tại Tòa sơ thẩm lần 2, bà Nhân có yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án hủy bỏ giá trị pháp lý đối với bìa đỏ mà Ủy ban thị xã Ninh Hòa đã cấp cho ông Hùng, bà Xuyến, để gia đình bà giữ lại tài sản nói trên làm nơi thờ cúng ông bà tổ tiền như giấy thuận phân của dòng tộc.
Tại bản án số 33 ngày 30-9-2013 của Tòa án thị xã Ninh Hòa do Thẩm phán Nguyễn Khánh Sơn làm chủ tọa một lần nữa tuyên buộc bà Hiền phải giao nhà cho ông Hùng bà Xuyến mà hoàn toàn không xem xét giải quyết yêu cầu độc lập của bà Nhân. Coi như bà Nhân hoàn toàn không hiện diện trong vụ án!
Trong vụ án này, các cấp Tòa án đều biết rằng tài sản mà bà Hiền mang ra giao dịch với vợ chồng ông Hùng bà Xuyến là di sản thừa kế của ba chị em bà Nhân, bà Lệ và bà Hiền, nhưng chỉ có bà Hiền thực hiện việc giao dịch là trái luật. Việc Tòa án công nhận giao dịch trái luật và không giải quyết yêu cầu độc lập của bà Nhân là tước đoạt quyền sở hữu tài sản của bà Nhân và bà Lệ.
Trao đổi với chúng tôi, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cho rằng xét xử như vậy là sai, nhưng không thể không chấp hành ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án tỉnh Khánh Hòa được, vì Thẩm phán này đang đến lúc tái bổ nhiệm!
Năm 1982 ông Nguyễn Long Trưởng và vợ là bà Trần Thị Hương từ Bình Định lên Đak Lak lập nghiệp có tạo lập được 3 thửa đất tại thôn 1 xã Cư Ebur, Tp Buôn Ma Thuột và sinh được 2 người con. Năm 1993, bà Hương qua đời không để lại di chúc. Năm 2000, ông Trường kết hôn với bà Hoàng Thị Ngọc Dung. Sau khi kết hôn, ông Trưởng bán toàn bộ tài sản của mình với bà Hương trước đó để vào huyện Buôn Đôn mua đất và làm nhà trọ cho thuê. Tất cả các giấy tờ đăng ký chủ quyền đều mang tên “ông Nguyễn Long Trưởng”
Năm 2011, do mâu thuẫn vợ chồng, ông Trưởng ly hôn với bà Dung. Tại các biên bản lấy lời khai do Tòa án lập, bà Dung khai: “Khi kết hôn với anh Trưởng bản thân tôi không có tài sản gì, toàn bộ tài sản có bây giờ mà tôi đã kê khai là của chồng tôi có từ trước khi kết hôn với tôi, nay tôi đề nghị Toà án giải quyết cho tôi một phần công sức đóng góp vào khối tài sản riêng của anh Trưởng” (nguyên văn). Trong vụ án ly hôn này, sau đó các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết phần tài sản.
Sau khi ly hôn, bà Dung khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản sau ly hôn bằng một vụ án khác. Tại Tòa lần này bà Dung khai: “sau khi kết hôn với anh Trưởng, tôi đã chăn nuôi và cùng anh Trưởng mua đất xây dựng nhà trọ và một số tài sản như xe ô tô, đồ dùng trong gia đình…, nên tôi yêu cầu tòa án chia đôi tài sản”, trong đó hầu hết là tài sản của ông Trưởng có với vợ trước và các con của ông Trưởng là người thừa kế. Nhưng tại bản án số 02 ngày 06-6-2013 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn do Thẩm phán, chánh án Trịnh Văn Toàn chủ tọa đã tuyên xử: chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của bà Dung, giao các tài sản chung cho ông Trưởng sở hữu. Ông Trưởng có trách nhiệm bù hoàn giá trị phần tài sản chung cho bà Dung 300 triệu đồng và 01 chiếc xe máy!
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Trưởng kháng cáo. Các con ông Trưởng với bà Hương khiếu nại việc Tòa án lấy tài sản là di sản của mẹ mình chia cho bà Dung nhưng cấp sơ thẩm không triệu tập họ tham gia tố tụng. Thế nhưng, đều đáng nói ở đây là khiếu nại của các con ông Trưởng không được Tòa án tỉnh Đak Lak giải quyết. Tại bản án số 32a ngày 15-11-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Đak Lak do các Thẩm phán Lê Thị Hương, Nguyễn Thị Tĩnh, Y Phi đã tuyên xử “bác kháng cáo của ông Trưởng, giữ nguyên án sơ thẩm”!
Rõ ràng 2 cấp Tòa án của tỉnh Dak Lak đã xử “lấy được”, coi tài sản của công dân là món hàng mà họ thích quyết thế nào cũng được, bất chấp pháp luật!
Dư luận đang đặt nghi vấn, phải chăng hệ thống Tòa án Việt Nam xét xử theo ý chí của mỗi thẩm phán mà không cần pháp luật? Mong rằng với trách nhiệm của mình, Tòa án nhân dân tối cao cần xem xét lại các bản án nói trên theo thủ tục giám đốc thẩm dể kịp thời khắc phục công tác “xử lấy dược” nói trên, đừng để sau khi thi hành án xong, người được thi hành án tẩu tán tài sản, thì dù có xử lại, người phải thi hành án cũng chẳng còn gì để lấy lại. Còn thẩm phán xét xử sai lúc đó đã nghỉ hưu! Và cần thiết phải xem xét tư cách phẩm chất của các Thẩm phán chủ tọa các phiên tòa này, để răn đe phòng ngừa chung trong xã hội và cũng để chấm dứt những bản án mang tính tước đoạt quyền sở hữu tài sản của nhân dân như trên!
Nội dung bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả