VNTB – Các bài học sau một năm đại dịch Covid-19

VNTB – Các bài học sau một năm đại dịch Covid-19

Vũ Quốc Ngữ – Anh Khoa dịch 

(VNTB) – Trong một năm có nhiều đột phá về khoa học – và những thất bại về chính trị – chúng ta có thể học được gì cho tương lai?

 

Tác giả : Yuval Noah Harari

Financial Times, tháng 2, 2021

Làm thế nào chúng ta có thể tóm tắt năm Covid từ một quan điểm lịch sử rộng lớn? Nhiều người tin rằng vi rút corona gây ra tổn thất khủng khiếp về nhân mạng chứng tỏ sự bất lực của nhân loại trước sức mạnh thiên nhiên. Thực tế, năm 2020 đã cho thấy loài người không bất lực. Dịch bệnh không còn là hiện tượng tự nhiên ngoài tầm kiểm soát. Khoa học đã biến chúng thành một thách thức có thể kiểm soát được.

Vậy tại sao lại có quá nhiều chết chóc và đau khổ? Vì những quyết định chính trị tồi tệ.

Trước đây, khi con người phải đối mặt với một bệnh dịch như Cái chết Đen hay bệnh dịch hạch (1346-1353), họ không biết vì sao có dịch bệnh hoặc làm thế nào để ngăn chặn dịch bệnh. Khi đại dịch cúm năm 1918 xảy ra, các nhà khoa học giỏi nhất trên thế giới không thể xác định được loại vi rút chết người, nhiều biện pháp đối phó được áp dụng đều vô ích và việc phát triển một loại vắc xin hiệu quả cũng thất bại.

Covid-19 hoàn toàn khác. Hồi chuông cảnh báo đầu tiên về một đại dịch mới tiềm ẩn bắt đầu vang lên vào cuối tháng 12 năm 2019. Đến ngày 10/01/2020, các nhà khoa học đã không chỉ phân lập được vi rút gây ra dịch bệnh mà còn giải mã bộ gen virus và công bố trực tuyến. Trong vòng vài tháng sau, người ta đã  những biện pháp có thể làm chậm và ngăn chặn các chuỗi lây nhiễm. Trong vòng chưa đầy một năm, một số loại vắc xin hiệu quả đã được sản xuất hàng loạt. Trong cuộc chiến giữa con người và mầm bệnh, chưa bao giờ con người lại mạnh mẽ đến thế.

Chuyển sang sống trực tuyến

Cùng với những thành tựu chưa từng có của công nghệ sinh học, năm Covid cũng nhấn mạnh quyền lực của công nghệ thông tin. Trước đây, loài người hiếm khi ngăn chặn được dịch bệnh vì không thể theo dõi các chuỗi lây nhiễm thực tế, và các đợt cách ly kéo dài gây tổn hại cho kinh tế rất lớn. Vào năm 1918, người ta có thể cách ly những người mắc bệnh cúm đáng sợ, nhưng họ không thể theo dõi sự di chuyển của những người mang mầm bệnh nhưng chưa phát bệnh hoặc không có triệu chứng phát bệnh. Và nếu buộc toàn dân trong một quốc gia phải ở nhà vài tuần, kinh tế sẽ bị tàn phá, xã hội suy sụp và đói kém hàng loạt.

Ngược lại, vào năm 2020, giám sát kỹ thuật số giúp việc theo dõi và xác định chính xác các vật trung gian truyền bệnh dễ dàng hơn nhiều, có nghĩa là việc kiểm dịch có thể chọn lọc hơn và hiệu quả hơn. Quan trọng hơn nữa, tự động hóa và Internet đã khiến cách ly mở rộng trở nên khả thi, ít nhất là ở các nước phát triển.

Trong khi một số nơi ở các nước đang phát triển, đời sống vẫn giống như những đợt dịch ngày xưa, thì ở hầu khắp các quốc gia phát triển, cách mạng kỹ thuật số đã thay đổi mọi thứ.

Hãy xem xét lĩnh vực nông nghiệp. Trong hàng nghìn năm, sản xuất lương thực dựa vào sức lao động của con người, và khoảng 90% người dân làm nghề nông. Ngày nay ở các nước phát triển không còn như vậy nữa. Ở Mỹ, chỉ có khoảng 1,5% người dân làm việc trong các trang trại, nhưng họ sản xuất không chỉ nuôi sống được tất cả người Mỹ mà còn đưa Mỹ trở thành nhà xuất khẩu thực phẩm hàng đầu. Hầu như tất cả các công việc đồng áng đều do máy móc thực hiện, và chúng miễn dịch. Việc cách ly vì vậy chỉ có tác động nhỏ đến việc canh tác.

Hãy tưởng tượng một cánh đồng lúa mì lúc bệnh dịch hạch lây lan dữ dội. Nếu yêu cầu nông dân ở nhà vào thời gian thu hoạch, thì sẽ xảy ra nạn đói. Nếu bảo nông dân đến thu hoạch, họ có thể lây bệnh cho nhau. Vậy thì phải làm gì?

Bây giờ hãy tưởng tượng cùng cánh đồng lúa mì đó vào năm 2020. Một tổ hợp được định hướng bằng GPS có thể thu hoạch toàn bộ cánh đồng hiệu quả hơn nhiều – và không có nguy cơ lây nhiễm bệnh. Trong khi vào năm 1349, một nông dân trung bình thu hoạch được khoảng 5 giạ lúa mỗi ngày, thì vào năm 2014, một tổ hợp đã lập kỷ lục thu hoạch 30.000 giạ trong một ngày. Do đó, Covid-19 không có tác động đáng kể đến sản xuất toàn cầu đối với các loại cây trồng chủ lực như lúa mì, ngô và gạo.

Để nuôi sống con người chỉ thu hoạch ngũ cốc thôi thì không đủ. Bạn cũng cần phải vận chuyển ngũ cốc đi xa đôi khi trên hàng nghìn kilomet. Thương mại gần như là một trong những nhân vật phản diện chính trong câu chuyện về đại dịch. Mầm bệnh chết người phát tán khắp thế giới từ các tàu buôn và các đoàn lữ hành đường dài. Ví dụ, bệnh dịch hạch từ Đông Á đến Trung Đông theo Con đường Tơ lụa, và tàu buôn của người Genoa sau đó đã mang nó đến châu Âu. Thương mại gây ra một mối đe dọa chết người như vậy bởi vì mỗi xe hàng đều cần một người lái, ngay cả những tàu biển nhỏ cũng cần có hàng chục thủy thủ, và những con tàu cùng nhà trọ đông đúc là nơi sinh sôi dịch bệnh.

Vào năm 2020, thương mại toàn cầu có thể tiếp tục hoạt động ít nhiều suôn sẻ vì hầu như không có con người tham gia. Một con tàu chở container hiện nay được tự động hóa gần hết có thể chở nhiều hơn cả đội thương thuyền của toàn bộ vương quốc trước kia. Năm 1582, đội tàu buôn của Anh có tổng sức chở 68.000 tấn và cần khoảng 16.000 thủy thủ. Con tàu container OOCL Hong Kong, được hạ thuỷ vào năm 2017, có thể chở khoảng 200.000 tấn trong khi thủy thủ đoàn chỉ có 22 người.

Đúng như vậy, những con tàu du lịch với hàng trăm du khách và máy bay chở đầy hành khách đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát tán Covid-19. Nhưng du lịch và đi lại không phải là điều cần thiết cho thương mại. Khách du lịch có thể ở nhà và những người kinh doanh có thể dùng Zoom, trong khi những con tàu tự động và những chuyến tàu gần như không có con người giữ cho nền kinh tế toàn cầu vận động. Trong khi du lịch quốc tế giảm mạnh vào năm 2020, thì khối lượng thương mại hàng hải toàn cầu chỉ giảm 4%.

Tự động hóa và số hóa thậm chí còn có tác động sâu sắc hơn đến các dịch vụ. Vào năm 1918, không thể tưởng tượng được rằng các văn phòng, trường học, tòa án hoặc nhà thờ có thể tiếp tục hoạt động trong tình trạng bị cách ly. Nếu học sinh và giáo viên ở trong nhà, làm thế nào có thể tổ chức lớp học? Hôm nay chúng ta biết câu trả lời. Việc chuyển đổi trực tuyến có nhiều nhược điểm, đặc biệt là tổn thất tinh thần to lớn. Cuộc sống trực tuyến cũng đã tạo ra những vấn đề không thể tưởng tượng trước đây, chẳng hạn như luật sư hoá mèo trong phiên toà. Nhưng đáng kinh ngạc là những việc đó đều đã xảy ra.

Vào năm 1918, loài người chỉ sinh sống ở thế giới vật chất, và khi virus cúm chết người càn quét qua thế giới này, loài người không còn nơi nào để trốn chạy. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta đang sống trong hai thế giới – thực và ảo. Khi vi rút corona lây lan trong thế giới vật chất, nhiều người đã chuyển gần hết sang thế giới ảo mà virus không thể theo chân.

Tất nhiên, con người vẫn là thực thể vật lý, và không phải mọi thứ đều có thể được số hóa. Năm Covid đã nêu bật vai trò quan trọng của nhiều nghề được trả lương thấp trong việc duy trì nền văn minh nhân loại: y tá, công nhân vệ sinh, tài xế xe tải, thu ngân, người giao hàng. Người ta thường nói đói ăn vụng, túng làm càn. Vào năm 2020, những người giao hàng là người giữ cho xã hội bình ổn. Họ đã trở thành huyết mạch quan trọng trong thế giới vật chất của chúng ta.

Internet ổn định

Khi nhân loại tự động hóa, kỹ thuật số hóa và chuyển sang hoạt động trực tuyến, chúng ta phải đối mặt với những mối nguy hiểm mới. Một trong những điều đáng chú ý nhất của năm Covid là Internet vẫn chưa bị hư hại. Nếu chúng ta đột ngột tăng lượng phương tiện qua lại trên một cây cầu, thì sẽ có tắc đường, và thậm chí có thể sập cầu. Vào năm 2020, các trường học, văn phòng và nhà thờ chuyển sang trực tuyến hầu như chỉ trong một đêm, nhưng Internet vẫn ổn định.

Chúng ta hầu như không nghĩ về điều này, nhưng mà nên làm như vậy. Sau năm 2020, chúng ta biết rằng cuộc sống có thể tiếp diễn ngay cả khi cả một nước vị phong toả. Bây giờ hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số gặp sự cố.

Công nghệ thông tin đã giúp chúng ta kiên cường hơn khi đối mặt với các loại virus hữu cơ, nhưng nó cũng khiến chúng ta dễ bị tổn thương hơn do phần mềm độc hại và chiến tranh mạng. Mọi người thường hỏi: “Covid tiếp theo là gì?” Một cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số là lựa chọn hàng đầu. Phải mất vài tháng, vi rút corona mới lan truyền khắp thế giới và lây nhiễm cho hàng triệu người. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số có thể sụp đổ trong một ngày. Và trong khi các trường học và văn phòng có thể chuyển đổi trực tuyến nhanh chóng, bạn nghĩ mình sẽ mất bao lâu để chuyển từ điẹn thư sang thư tay?

Cần xem xét gì?

Năm Covid đã cho thấy một hạn chế thậm chí còn quan trọng hơn về sức mạnh khoa học và công nghệ. Khoa học không thể thay thế chính trị. Khi ra một quyết sách, chúng ta phải tính đến nhiều lợi ích và giá trị, và vì không có cách nào khoa học để xác định lợi ích và giá trị nào quan trọng hơn, nên không có cách khoa học nào để quyết định những gì chúng ta nên làm.

Ví dụ: khi quyết định có nên cách ly hay không, bạn chỉ cần hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ bị nhiễm Covid-19 nếu không cách ly?”. Chúng ta cũng nên đặt câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ bị trầm cảm nếu bị cách ly? Bao nhiêu người sẽ bị thiếu dinh dưỡng? Bao nhiêu người sẽ nghỉ học hoặc mất việc làm? Có bao nhiêu người sẽ bị chồng/vợ đánh đập hoặc sát hại ? “

Ngay cả khi tất cả dữ liệu là chính xác và đáng tin cậy, chúng ta nên luôn hỏi: “Chúng ta tính đến cái gì? Ai quyết định tính cái đó? Làm thế nào để đánh giá các con số với nhau?” Đây là một nhiệm vụ chính trị hơn là khoa học. Chính các chính trị gia phải cân bằng giữa các cân nhắc về y tế, kinh tế và xã hội và đưa ra một chính sách toàn diện.

Tương tự như vậy, các kỹ sư đang tạo ra các nền tảng kỹ thuật số mới giúp chúng ta hoạt động trong thời gian cách ly và các công cụ giám sát mới giúp chúng ta ngăn các chuỗi lây nhiễm. Nhưng số hóa và giám sát ảnh hưởng đến quyền riêng tư và mở đường cho sự xuất hiện của các chế độ toàn trị chưa từng có. Vào năm 2020, giám sát hàng loạt đã trở nên hợp pháp hơn và phổ biến hơn. Chống dịch cũng quan trọng, nhưng liệu có đáng phải phá hủy tự do trong quá trình này không? Các chính trị gia chứ không phải của các kỹ sư có nhiệm vụ cân bằng phù hợp giữa giám sát hữu ích và những cơn ác mộng.

Ba quy tắc cơ bản có thể bảo vệ chúng ta lâu dài trước các chế độ độc tài kỹ thuật số, ngay cả trong thời đại bệnh dịch. Đầu tiên, bất cứ khi nào bạn thu thập dữ liệu về con người – đặc biệt là về những gì đang xảy ra bên trong cơ thể của họ – dữ liệu này nên được sử dụng để giúp họ hơn là thao túng, kiểm soát hoặc làm hại họ. Bác sĩ riêng của tôi biết nhiều điều cực kỳ riêng tư về tôi. Tôi đồng ý với điều này, vì tôi tin tưởng bác sĩ sử dụng dữ liệu này vì lợi ích của tôi. Ông không được bán dữ liệu này cho bất kỳ công ty hoặc đảng phái chính trị nào. Bất kỳ loại “cơ quan giám sát đại dịch” được thiết lập cũng phải làm như vậy.

Thứ hai, giám sát luôn phải đi theo cả hai hướng. Nếu chỉ giám sát từ trên xuống dưới, thì đây là con đường dẫn đến chế độ độc tài. Vì vậy, bất cứ khi nào tăng cường giám sát cá nhân, thì cũng nên đồng thời tăng cường giám sát chính phủ và các tập đoàn lớn. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng hiện nay, các chính phủ đang chi rất nhiều tiền. Quy trình phân bổ kinh phí cần được minh bạch hơn.

Là một công dân, tôi muốn dễ dàng xem ai nhận được gì và ai là người quyết định số tiền sẽ đi đâu. Tôi muốn đảm bảo rằng số tiền được chuyển đến các doanh nghiệp thực sự cần hơn là cho một tập đoàn lớn có chủ sở hữu là bạn của một bộ trưởng. Nếu chính phủ nói rằng thiết lập một hệ thống giám sát như vậy giữa đại dịch là quá phức tạp, thì đừng tin. Nếu giám sát những gì bạn làm không quá phức tạp – thì giám sát những gì chính phủ làm cũng chẳng quá phức tạp.

Thứ ba, không bao giờ cho phép tập trung quá nhiều dữ liệu ở một nơi trong thời gian dịch bệnh lẫn khi hết dịch. Độc quyền dữ liệu là một công thức của chế độ độc tài. Vì vậy, nếu phải thu thập dữ liệu sinh trắc học trên người để ngăn chặn đại dịch, cần một cơ quan y tế độc lập hơn là cảnh sát thực hiện việc này. Và dữ liệu kết quả nên được giữ riêng biệt với các kho dữ liệu khác của các bộ chính phủ và các tập đoàn lớn. Chắc chắn, điều đó sẽ tạo ra sự dư thừa và kém hiệu quả. Nhưng kém hiệu quả là một đặc tính, không phải là một lỗi lập trình. Bạn muốn ngăn chặn chế độ độc tài kỹ thuật số phát triển? Hãy làm cho nó ít ra không hiệu quả một chút.

Chuyển sang cho các chính trị gia

Những thành công chưa từng có về khoa học và công nghệ của năm 2020 không giải quyết được cuộc khủng hoảng Covid-19. Chúng đã biến dịch bệnh từ thiên tai thành một tình thế chính trị tiến thoái lưỡng nan. Khi bệnh dịch hạch giết hàng triệu người, không ai mong đợi nhiều từ các vị vua và hoàng đế. Khoảng một phần ba tổng số người dân Anh đã chết trong đợt dịch hạch đầu tiên, nhưng điều này không khiến Vua Edward III của nước Anh mất ngôi. Vua chúa không thể ngăn được dịch bệnh và chẳng ai trách họ vì thất bại đó.

Nhưng ngày nay loài người có các công cụ khoa học để ngăn chặn Covid-19. Nhiều quốc gia, từ Việt Nam đến Úc, đã chứng minh rằng ngay cả khi không có vắc-xin, các công cụ sẵn có vẫn có thể ngăn chặn dịch bệnh. Tuy nhiên, những công cụ này có giá kinh tế và xã hội cao. Chúng ta có thể đánh bại vi-rút, nhưng chúng ta không chắc có sẵn sàng trả giá để chiến thắng. Đó là lý do tại sao các thành tựu khoa học đã đặt lên vai các chính trị gia một trách nhiệm to lớn.

Thật không may, quá nhiều chính trị gia đã không làm tròn trách nhiệm này. Ví dụ, các tổng thống dân túy của Mỹ và Brazil đã hạ thấp sự nguy hiểm, không nghe theo ý kiến chuyên gia mà tin vào các thuyết âm mưu. Họ đã không đưa ra một kế hoạch hành động liên bang đúng đắn và phá hoại nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh của chính quyền thành phố và tiểu bang. Sự cẩu thả và thiếu trách nhiệm của chính quyền Trump và Bolsonaro đã khiến hàng trăm nghìn người chết mà lẽ ra có thể tránh được.

Ở Anh, ban đầu chính phủ dường như bận tâm đến Brexit hơn là với Covid-19. Với tất cả các chính sách cô lập, chính quyền Johnson đã thất bại trong việc cô lập nước Anh khỏi điều thực sự quan trọng: vi rút. Đất nước Israel, quê hương của tôi cũng đã phải chịu đựng sự quản lý chính trị yếu kém. Cũng như Đài Loan, New Zealand và đảo Síp, Israel thực tế là một “quốc đảo” có biên giới khép kín và chỉ có một cửa khẩu nhập cảnh chính – Sân bay Ben Gurion. Tuy nhiên, vào đỉnh điểm của đại dịch, chính phủ Netanyahu đã cho phép du khách nhập cảnh mà không cần kiểm dịch hoặc thậm chí là kiểm tra cẩn thận đồng thời đã bỏ qua việc thực thi các chính sách cách ly.

Cả Israel và Anh sau đó đều đi đầu trong việc tiến hành tiêm vắc-xin, nhưng những đánh giá sai lầm ban đầu đã khiến họ phải trả giá đắt. Ở Anh, đại dịch đã cướp đi sinh mạng của 120.000 người, đứng thứ sáu trên thế giới về tỷ lệ tử vong trung bình. Trong khi đó, Israel có tỷ lệ nhiễm bệnh xác nhận cao thứ bảy, và để chống lại thảm họa, họ đã đạt được thỏa thuận “vắc xin đổi dữ liệu” với tập đoàn Pfizer của Mỹ. Pfizer đã đồng ý cung cấp đủ vắc xin cho Israel để đổi lấy lượng dữ liệu có giá trị khổng lồ, gây lo ngại về quyền riêng tư và độc quyền dữ liệu, đồng thời chứng minh rằng dữ liệu của công dân hiện là một trong những tài sản nhà nước có giá trị nhất.

Trong khi một số quốc gia thực hiện tốt hơn nhiều, nhân loại nói chung cho đến nay đã thất bại trong việc ngăn chặn đại dịch, hoặc đề ra một kế hoạch toàn cầu để đánh bại vi rút. Những tháng đầu năm 2020 giống như xem một vụ tai nạn quay chậm. Truyền thông hiện đại giúp mọi người trên toàn thế giới có thể nhìn thấy những hình ảnh thực tế đầu tiên từ Vũ Hán, tiếp theo từ Ý, sau đó từ ngày càng nhiều quốc gia hơn – nhưng không có lãnh đạo toàn cầu nào xuất hiện để ngăn chặn thảm họa đang nhấn chìm thế giới. Công cụ đã có sẵn, nhưng lại thường thiếu đi sự khôn ngoan chính trị.

Người nước ngoài  thành công

 

Một lý do giải thích cho khoảng cách giữa thành công khoa học và thất bại chính trị là các nhà khoa học hợp tác với nhau trên toàn cầu, trong khi các chính trị gia có xu hướng thù địch. Làm việc trong điều kiện căng thẳng và không chắn chắn, các nhà khoa học trên khắp thế giới tự do chia sẻ thông tin và dựa trên những phát hiện và nhận thức của nhau. Nhiều dự án nghiên cứu quan trọng đã được các nhóm quốc tế thực hiện. Ví dụ, một nghiên cứu quan trọng chứng minh hiệu quả của các biện pháp cách ly đã được đồng tiến hành từ các nhà nghiên cứu thuộc chín tổ chức – một ở Anh, ba ở Trung Quốc và năm ở Mỹ.

Trái lại, các chính trị gia đã thất bại trong việc thành lập một liên minh quốc tế chống lại virus và đồng thuận về một kế hoạch toàn cầu. Hai siêu cường hàng đầu thế giới, Mỹ và Trung Quốc, đã cáo buộc lẫn nhau giữ kín thông tin quan trọng, phổ biến thông tin sai lệch và các thuyết âm mưu, và thậm chí cố tình phát tán vi-rút. Nhiều quốc gia khác rõ ràng đã làm sai lệch hoặc giấu dữ liệu về diễn biến đại dịch.

Sự thiếu hợp tác toàn cầu không chỉ thể hiện trong các cuộc chiến thông tin này mà còn thể hiện nhiều hơn trong các cuộc xung đột về trang thiết bị y tế khan hiếm. Mặc dù đã có nhiều trường hợp hợp tác và hào phóng, nhưng không có nỗ lực nghiêm túc nào được thực hiện để tổng hợp tất cả các nguồn lực sẵn có, tổ chức hiệu quả sản xuất toàn cầu và đảm bảo phân phối nguồn cung một cách công bằng. Đặc biệt, “chủ nghĩa dân tộc về vắc xin” tạo ra một loại bất bình đẳng toàn cầu mới giữa các quốc gia có thể tiêm vắc xin và các quốc gia không tiêm vắc xin cho dân chúng.

Thật đáng buồn khi nhiều người không hiểu một sự thật đơn giản về đại dịch này: chừng nào vi rút vẫn tiếp tục lây lan ở bất cứ đâu, thì không quốc gia nào có thể cảm thấy thực sự an toàn. Giả sử Israel hoặc Vương quốc Anh thành công trong việc tiêu diệt vi-rút trong nước, nhưng vi-rút vẫn tiếp tục lây lan trong hàng trăm triệu người ở Ấn Độ, Brazil hoặc Nam Phi. Một biến thể mới ở một thị trấn xa xôi nào đó của Brazil có thể khiến vắc-xin mất tác dụng và dẫn đến một làn sóng lây nhiễm mới.

Trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, việc kêu gọi sự tử tế đơn thuần có lẽ sẽ không làm hại lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, sự hợp tác toàn cầu không phải là sự tử tế. Đó là điều cần thiết để đảm bảo lợi ích quốc gia.

Chống vi rút cho thế giới

Các tranh luận về những gì đã xảy ra vào năm 2020 sẽ còn lặp lại trong nhiều năm sau. Nhưng người của phe phái chính trị nào cũng nên thống nhất về ít nhất ba bài học chính.

Trước tiên, chúng ta cần bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của mình. Đó là cứu cánh của chúng ta trong đại dịch này, nhưng nó có thể sớm trở thành nguồn gốc của một thảm họa thậm chí còn tồi tệ hơn.

Thứ hai, mỗi quốc gia nên đầu tư nhiều hơn vào hệ thống y tế công. Có vẻ đây là điều hiển nhiên, nhưng các chính trị gia và cử tri đôi khi bỏ qua bài học rõ ràng nhất.

Thứ ba, chúng ta nên thiết lập một hệ thống toàn cầu mạnh mẽ để giám sát và ngăn chặn đại dịch. Trong cuộc chiến lâu dài giữa con người và dịch bệnh, chiến tuyến ở ngay trên cơ thể của mỗi con người. Nếu chiến tuyến này bị phá vỡ ở bất kỳ đâu trên hành tinh, tất cả chúng ta sẽ gặp nguy hiểm. Ngay cả những người giàu nhất ở các nước phát triển nhất cũng có lợi ích cá nhân trong việc bảo vệ những người nghèo nhất ở các nước kém phát triển nhất. Nếu một loại vi-rút mới truyền từ dơi sang người trong một ngôi làng nghèo trong khu rừng hẻo lánh nào đó, thì trong vài ngày tới vi-rút đó có thể xâm nhập vào Phố Wall.

Bộ khung của một hệ thống chống bệnh dịch toàn cầu như vậy đã có sẵn ở Tổ chức Y tế Thế giới và một số tổ chức khác. Nhưng ngân sách hỗ trợ hệ thống này rất ít ỏi, và hầu như không có lợi ích chính trị. Hệ thống này cần có được một số ảnh hưởng chính trị và nhiều tiền hơn nữa để không hoàn toàn phụ thuộc vào những ý tưởng bất chợt của các chính trị gia ích kỷ.

Như đã nói trước đó, tôi không tin rằng các chuyên gia không được bầu chọn nên được giao nhiệm vụ đưa ra các quyết sách quan trọng. Điều đó nên chỉ dành cho các chính trị gia. Nhưng một loại cơ quan y tế toàn cầu độc lập nào đó sẽ là nền tảng lý tưởng để tổng hợp dữ liệu y tế, theo dõi các mối nguy tiềm ẩn, nâng cao cảnh báo và chỉ đạo nghiên cứu và phát triển.

Nhiều người lo sợ rằng Covid-19 đánh dấu sự khởi đầu của một làn sóng đại dịch mới. Nhưng nếu không học được từ các bài học trên, cú sốc về việc Covid-19 đã gây ra đại dịch sẽ trở nên ít phổ biến hơn. Loài người không thể ngăn chặn các mầm bệnh mới xuất hiện. Đây là một quá trình tiến hóa tự nhiên đã diễn ra hàng tỷ năm và sẽ còn tiếp tục trong tương lai. Nhưng ngày nay loài người có kiến thức và công cụ cần thiết để ngăn chặn mầm bệnh mới lây lan và trở thành đại dịch.

Tuy nhiên, nếu Covid-19 tiếp tục lây lan vào năm 2021 và giết chết hàng triệu người, hoặc nếu một đại dịch chết người còn hơn nữa xảy ra vào năm 2030, thì đây sẽ không phải là một thảm họa tự nhiên không thể kiểm soát được cũng không phải là sự trừng phạt của Thượng Đế. Đó là một thất bại của con người và – chính xác hơn – là sự thất bại chính trị.

Nguồn: Financial Times


CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)