VNTB – Vì sao cần phải sửa đổi Luật Công đoàn?

VNTB – Vì sao cần phải sửa đổi Luật Công đoàn?

Trần Dzạ Dzũng (ghi)

(VNTB) – Lý do dễ thấy nhất, nếu tiếp tục không có quyền tự do công đoàn thì các thỏa thuận thương mại của Việt Nam với thế giới, sẽ dừng lại là những bản văn với các “ngôn từ có cánh”, không mang tới lợi ích cụ thể nào đối với người dân Việt.

Dĩ nhiên trong tâm thế chẳng đặng đừng ấy, phía Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam buộc phải chấp nhận sự thay đổi để phù hợp cuộc chơi chung. Điều đó có nghĩa cho dù Đảng và nhà nước Việt Nam vẫn kiên định sử dụng cụm từ “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, song vẫn không thể nằm ngoài quỹ đạo của thị trường chung toàn cầu; trong đó có những thỏa thuận thường được báo chí hay nhắc tới như CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương), EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU).

Trong một trao đổi mới đây với giới báo chí, ông Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nói rằng ông đã trình lên Bộ Chính trị về các lý do cho cần kíp sửa đổi Luật Công đoàn hiện hành.

Cụ thể, ông Nguyễn Đình Khang nói:

Một. Xuất phát từ yêu cầu khắc phục một số hạn chế, bất cập của Luật Công đoàn, đáp ứng hoạt động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới.

Luật Công đoàn hiện hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của đất nước, phát huy vai trò, tác dụng và ảnh hưởng rộng lớn của tổ chức công đoàn trong xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Công đoàn bộc lộ những hạn chế, bất cập trước yêu cầu tình hình mới: Đối tượng, phạm vi điều chỉnh còn hẹp so với sự phát triển nhanh, đa dạng của quan hệ lao động và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn.

Hệ thống tổ chức, việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa cấp ủy, địa phương với tổ chức công đoàn về công tác tổ chức, cán bộ chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp và chưa hợp lý. Cơ chế bảo đảm thực thi quyền công đoàn cũng như cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn chưa đầy đủ và cụ thể, tính khả thi không cao.

Trong khi đó việc tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn còn dàn trải, chưa tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, nên vai trò của tổ chức công đoàn ở nhiều nơi còn mờ nhạt.

Hai. Yêu cầu từ việc thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, các chủ trương, nghị quyết của Đảng và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Do Hiến pháp năm 2013 được ban hành sau khi Luật Công đoàn được thông qua, nên có những nội dung của Luật Công đoàn chưa hoàn toàn tương thích với Hiến pháp.

Sau Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề liên quan đến tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, hội nhập quốc tế trong xu thế nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới…

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động và tổ chức công đoàn như: Luật Việc làm (năm 2013), Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật Doanh nghiệp (năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (năm 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 2015)…

Đặc biệt, Bộ luật Lao động vừa được Quốc hội thông qua tháng 11/2019, trong đó có nhiều nội dung mới về quan hệ lao động như ghi nhận địa vị pháp lý của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bên cạnh tổ chức công đoàn Việt Nam.

Do đó, Luật Công đoàn cần tiếp tục được sửa đổi nhằm đảm bảo sự thống nhất, sự phù hợp với nội dung của các luật mới ban hành gần đây.

Ba. Yêu cầu từ hội nhập kinh tế quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu, đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU và Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Cam kết về lao động trong các Hiệp định này yêu cầu các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ thực hiện các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của người lao động theo Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).

Cụ thể là 4 nhóm quyền theo 8 Công ước cơ bản của ILO: (1) tự do hiệp hội và thúc đẩy quyền thương lượng tập thể theo Công ước số 87 và Công ước số 98; (2) xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc theo Công ước số 29 và Công ước số 105; (3) xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em theo Công ước số 138 và Công ước số 182; (4) xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp theo Công ước số 100 và Công ước số 111.

Những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do nêu trên, đã đặt ra yêu cầu rà soát và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, lao động – công đoàn.

Do vậy, Luật Công đoàn cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung để bảo đảm sự tương thích với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản, cam kết của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới mà chúng ta tham gia và phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, thể chế chính trị của Việt Nam”. (hết dẫn trao đổi).

Với cách diễn giải dông dài nói trên cho thấy thực ra chỉ đúng mỗi cái được gọi là thứ ba, với yêu cầu luật pháp Việt Nam phải tương thích luật chơi chung toàn cầu.

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)