VNTB – Tự do – gương mặt đẹp đẽ nhất…

VNTB – Tự do – gương mặt đẹp đẽ nhất…

Vân Khanh

(VNTB) – Báo chí đang góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội. Đó là quá trình lấy đối thoại thay cho độc thoại, lấy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thay cho độc quyền và đặc quyền “xin cho”.

Để có thể được những tờ báo đủ dũng khí đeo đuổi quá trình dân chủ hóa xã hội, thì những tòa soạn này phải là nơi không chịu sự điều chỉnh của những nội dung định hướng tuyên truyền định kỳ mà cơ quan Tuyên giáo Trung ương bắt buộc.

Dưới tác động của cuộc cách mạng thông tin và mạng internet, “ở mọi nơi, các hệ thống thứ bậc đang bị thách thức từ bên dưới và phải tự biến đổi thành các cấu trúc theo chiều ngang và có tính cộng tác hơn”. Với mạng internet nối mạng toàn cầu thì sự bưng bít thông tin là chuyện ngớ ngẩn. Có khi, chính sự bưng bít ấy lại gợi thêm sự tò mò đến người đọc tự tìm lấy thông tin cho mình qua mạng.

Lịch sử báo chí Việt Nam mà sinh viên được học, có kể rằng vào năm 1936, một cuộc tranh luận xảy ra nảy lửa giữa các tờ báo liên quan đến… “tự do ngôn luận”. Bắt đầu từ các tờ Phong Hóa, Ngày Nay… khơi mào “nổ” với các việc như đưa “tối hậu thư, khai chiến với hết thảy các báo Đông Pháp” để đạt cái gọi là: Xin (báo chí) được tự do ngôn luận!

Ngay sau đó, các tờ như Bắc Hà, Nghe Thấy… công kích dữ dội về cái được gọi là xin được tự do báo chí ấy. Đến Sông Hương của Phan Khôi (số ngày 14-11-1936) đã đưa ra lời “phán quyết” trò “lố bịch” khi kêu gọi tất cả các báo ở xứ Đông Dương bấy giờ kêu gọi “xin tự do ngôn luận”… Trên Sông Hương viết: “Tự do, chúng tôi biết là vật xưa nay chỉ có người ta tự tạo lấy cho mình, khi chưa được thì hẵng nhịn nhục và chờ đợi, chứ chẳng phải là vật có thể xin mà được. Nếu xin mà được cái ấy, chúng tôi quyết nó không phải là cái tự do”.

Và Sông Hương không ngần ngại trình bày một thực tế: “Các báo xứ ta hiện nay ngôn luận không được tự do, điều ấy Chánh phủ vẫn biết, há còn phải đợi kêu ca? Biết mà không để ngôn luận tự do, là vì Chánh phủ thấy chưa có gì buộc mình phải làm như thế…”.

Sau đó, trên Sông Hương số ngày 5-12-1936, lại có một bài viết khác tiếp tục về đề tài này với tiêu đề: “Dù được ngôn luận tự do, chúng ta cũng chưa chắc sử dụng được cái quyền ấy”.

Bài báo một lần nữa chỉ rõ: “Tự do ngôn luận là một cái quyền trong các thứ dân quyền. Đã là cái quyền thì phải do dân dùng sức mạnh của mình giành lấy mà được, chứ không phải do người bề trên ban cho mà được”. Và nếu “xin mà chính phủ cho, chúng tôi e cho báo giới ta cũng không ngôn luận tự do được, vì theo thực sự, nó vốn không phải cái quyền của chúng ta mà chỉ là cái ơn của chính phủ ban cho chúng ta…”, “Cái ơn đã vô ích thì việc quái gì phải xin?”

Cuộc tranh luận này kéo dài tiếp sau đó, liên quan đến việc có hay không thành lập “nghiệp đoàn” báo chí và “tầm ảnh hưởng của báo chí lên Chánh phủ”.

Tuy nhiên, tất cả cũng chỉ là những tranh luận không hồi kết… Chính vì thế, vấn đề tự do ngôn luận hay tự do báo chí trên đất nước này, cho đến vẫn còn “ẩn nấp” như một điều “kỵ húy”. Thi thoảng đọc lại những bài báo của Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Tam, Hoài Thanh… gần trăm năm về trước, vẫn thèm, các cụ ít nhiều đã làm được một điều là “tự do là do con người tự tạo lấy, chứ không phải vật có thể xin mà được”!

Thi sĩ Tố Hữu từng bày tỏ tình yêu trai gái thấm đượm sắc màu giai cấp thế này trong thi phẩm “Bài ca Xuân 61:

Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu…”.

Cứ lấy ý tứ mà suy thì Tố Hữu chỉ dành tình cảm cho cái riêng (em yêu) chỉ chiếm 1/3 trái tim tươi đỏ của ông, còn hai phần nữa ông dành cho Đảng và cho thơ. Nhưng Đảng và thơ đối với ông, cũng chỉ là một. Bởi vậy, trái tim tươi đỏ của ông có đến 2/3 là dành cho Đảng, dành cho thơ viết vì cách mạng.

Nịnh đến thế là cùng, nhưng không sao cả, đó là quyền tự do trong tình yêu của Tố Hữu.

Cũng quyền tự do trong tiếng nói trái tim, thi sĩ Chế Lan Viên viết những câu thơ rướm máu của cả một thế hệ, và qua đó lại là một hoài nghi cho thế nào là quyền tự do:

Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng

Chỉ một đêm, còn sống có 30

Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?

Tôi! Tôi – người viết những câu thơ cổ võ

Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong

Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm

Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ

Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ

Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!

Ai chịu trách nhiệm vậy?

Lại chính là tôi!

Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời

Tôi ú ớ

Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong

Mà tôi xấu hổ

Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay

Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ

Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười”…

Bài thơ của Chế Lan Viên cho thấy danh dự là một cảm giác mang chất lượng sở hữu cá nhân. Khi nào danh dự trở thành sở hữu cá nhân, thì đó chính là điểm phát triển cao nhất của ý thức về đạo đức. Báo chí tư nhân chính là một danh dự tử tế như vậy.

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)